Hồ sơ – Sự kiện – Nhân chứng

Qua bài viết này Askanswerswiki xin chia sẻ với các bạn thông tin và kiến thức về Top 10 ngọn núi cao nhất việt nam hot nhất được tổng hợp bởi Askanswerswiki

I. Nước Nga trước cách mạng

Sau Cách mạng năm 1905, nước Nga vẫn là một nước quân chủ chuyên chế.

Lúc này, ở Nga đã có một nền đại công nghiệp tập trung rất cao với sự xuất hiện của các tổ chức độc quyền, phần lớn dưới hình thức xanhđica. Các tổ chức độc quyền đã kiểm soát nhiều ngành công nghiệp quan trọng như dầu mỏ, than đá, luyện kim, đường sắt.. cũng như trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng. Năm 1904, ở Nga đã có tới 50 tổ chức độc quyền lớn với trình độ tập trung rất cao. Ngay từ trước Chiến tranh thế giới thứ nhất, 13 ngân hàng lớn ở Pêtécbua đã tập trung trong tay tới 65% tổng số tư bản của tư nhân và trên 72% số tiền gửi vào ngân hàng. Trình độ tập trung của tư bản ngân hàng ở Nga cao hơn so với nhiều nước khác. Trên cơ sở hợp nhất giữa tư bản ngân hàng và tư bản công nghiệp, ở Nga đã hình thành sự thống trị của tư bản tài chính. Giai cấp tư bản độc quyền Nga đã giữ địa vị có ý nghĩa quyết định trong đời sống kinh tế – tài chính của đất nước và câu kết chặt chẽ với chính quyền Nga hoàng. Họ đã giữ những cương vị quan trọng trong viện Đuma quốc gia cũng như trong những cơ quan nhà nước khác và tác đông mạnh mẽ tới chính sách đối nội và đối ngoại của chính phủ Nga hoàng.

Nhưng nước Nga chỉ là một nước tư bản chủ nghĩa phát triển trung bình. Chủ nghĩa tư bản Nga phát triển muộn hơn, ngày càng lạc hậu và lệ thuộc vào các nước phương Tây.

Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng lạc hậu ấy của nước Nga chỉ có thể giải thích bằng sự tồn tại rất nặng nề những tàn tích phong kiến – nông nô.

Cơ sở tồn tại của những tàn tích phong kiến – nông nô chính là chế độ sở hữu lớn về ruộng đất của giai cấp địa chủ – quý tộc. Hai phần ba ruộng đất ở trong nước là nằm trong tay địa chủ – quý tộc và nhà thờ, 30 nghìn đại địa chủ chiếm tới 70 triệu đêxiatin ruộng đất của 10,5 triệu nông nô. Nga hoàng là địa chủ lớn nhất, chỉ riêng gia đình và họ hàng của Nga hoàng đã chiếm tới 7 triệu đềxiatin ruộng đất. Bọn địa chủ bóc lột nông dân hết sức nặng nề và tàn bạo, nhất là chế độ lao dịch. Trình độ sản xuất nông nghiệp hết sức lạc hậu: lao động thủ công là chủ yếu, năng suất thấp kém, nạn mất mùa và đói kém thường xuyên xảy ra ở các vùng.

Về chính trị, nước Nga là một nước quân chủ chuyên chế. Toàn bộ quyền lực chính trị trong nước là thuộc về Nga hoàng. Chế độ quân chủ Nga hoàng – nền chuyên chính của giai cấp địa chủ – chiếm giữ mọi đặc quyền về chính trị và mọi đặc lợi về kinh tế. Câu kết chặt chẽ với giai cấp tư sản, chính quyền Nga hoàng thẳng tay bóc lột và áp bức tàn bạo các tầng lớp nhân dân lao động, tước đoạt các quyền tự do dân chủ, đàn áp mọi phong trào đấu tranh đòi dân chủ của nhân dân, duy trì thường xuyên một đội quân đông đảo cảnh sát, mật thám và hiến binh. Phong kiến – quân phiệt là bản chất của chế độ chuyên chế Nga hoàng.

Chế độ Nga hoàng còn là nhà tù của các dân tộc. Nước Nga là một quốc gia nhiều dân tộc, có tới trên l00 dân tộc khác nhau, chiếm 57% dân số trong nước. Nhân dân các dân tộc không phải Nga đã rên xiết dưới hai ách áp bức: ách áp bức dân tộc của chế độ Nga hoàng và ách áp bức xã hội của bọn chúa đất và tư sản địa phương. Chính quyền Nga hoàng còn thi hành chính sách kỳ thị chủng tộc: chia rẽ và gây hằn thù giữa các dân tộc, cấm giảng dạy và xuất bản sách báo bằng tiếng mẹ đẻ…Trong những điều kiện của chủ nghĩa đế quốc, ách áp bức dân tộc lại càng nặng nề hơn.

Đế quốc Nga xâm lược, áp bức các dân tộc lạc hậu, nhưng chính nó lại lệ thuộc vào các nước phương Tây, nhất là đối với Anh, Pháp. Tư bản nước ngoài đã đầu tư rất nhiều vào các ngành công nghiệp quan trọng như luyện kim, than đá và dầu mỏ. Ngay từ năm 1890, tư bản nước ngoài đã chiếm tới 47% tổng số vốn đầu tư ở Nga còn chính phủ Nga hoàng nợ của Anh, Pháp gần 8 tỉ rúp vàng.

Như vậy, sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản độc quyền và những quan hệ tiền tư bản chủ nghĩa, sự kết hợp những hình thái kinh tế tiên tiến nhất và lạc hậu nhất đã làm cho nước Nga trở thành nơi hội tụ cao độ những mâu thuẫn gay gắt của chủ nghĩa đế quốc: mâu thuẫn giữa tư bản và vô sản, mâu thuẫn giữa địa chủ và nông dân, mâu thuẫn giữa đế quốc Nga và các dân tộc bị áp bức, mâu thuẫn giữa đế quốc Nga và các nước đế quốc Tây Âu. Trong đó có những mâu thuẫn thuộc chủ nghĩa tư bản đồng thời lại có những mâu thuẫn của xã hội phong kiến chưa được giải quyết. Toàn bộ những mâu thuẫn này chồng chéo lên nhau và ngày càng gay gắt làm cho nước Nga trở thành khâu yếu nhất trong sợi dây chuyền của chủ nghĩa đế quốc thế giới. Chính sự gay gắt của mâu thuẫn đó đã dẫn tới sự hình thành những tiền đề khách quan cho một cuộc cách mạng xã hội ở nước Nga.

Trước hết, đó là giai cấp vô sản Nga.

Tuy số lượng không đông, chỉ chiếm khoảng 10% dân số nam (1913 có 12 triệu người), nhưng giai cấp vô sản Nga có nhiều ưu điểm nỏi bật về chất lượng, nhất là về tinh thần và khả năng cách mạng. Bộ phận giác ngộ nhất, tiên tiến nhất và có tổ chức nhất của giai cấp vô sản Nga là đội ngũ công nhân đại công nghiệp (năm 1913 có 3,1 triệu người) tập trung chủ yếu trong các xí nghiệp, nhà máy lớn. Trình độ tập trung của giai cấp công nhân Nga lại cao hơn so với nhiều nước khác.

Giai cấp vô sản Nga có tinh thần và truyền thống đấu tranh cách mạng. Họ bị bóc lột và áp bức nặng nề. Trải qua đấu tranh lâu dài, đặc biệt là cuộc Cách mạng năm 1905, giai cấp vô sản Nga đã được thử thách, rèn luyện và tích lũy được nhiều kinh nghiệm đấu tranh phong phú. Điều có ý nghĩa cực kỳ quan trọng là giai cấp vô sản Nga đã xây dựng được chính Đảng tiên phong, cách mạng chân chính của mình. Đó là Đảng Bônsêvích Nga do lãnh tụ thiên tài V.I Lênin đứng đầu. Đảng được vũ trang bằng lý luận cách mạng của chủ nghĩa Mác, có khả năng lôi cuốn, tổ chức và lãnh đạo cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản và các tầng lớp nhân dân trong cả nước.

Giai cấp vô sản Nga còn có mối liên hệ chặt chẽ với nông dân lao động và nhân dân các dân tộc bị áp bức.

Với những đặc điểm đó, giai cấp công nhân Nga là giai cấp đi tiên phong và có đầy đủ khả năng lãnh đạo cuộc cách mạng xã hội trong nước.

Giai cấp nông dân – trước hết là nông dân nghèo – là lực lượng cách mạng to lớn, là bạn đồng minh tin cậy của giai cấp công nhân. Nông dân chiếm tới 4/5 dân số trong nước và 65% số hộ nông thôn là bần nông, bị áp bức bóc lột rất nặng nề, số đông không có hoặc có rất ít ruộng đất. Trong lịch sử đất nước, nông dân Nga đã nhiều lần nổi dậy đấu tranh. Giai cấp nông dân Nga là một lực lượng cách mạng to lớn.

Các dân tộc bị áp bức ở những vùng biên khu là một lực lượng cách mạng quan trọng và là người bạn đồng minh của giai cấp vô sản Nga. Thực tế, đại bộ phận nhân dân các dân tộc bị áp bức là quần chúng nông dân nghèo khổ, bị áp bức bóc lột hết sức thậm tệ. Trong những điều kiện của giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, mâu thuẫn dân tộc và cuộc đấu tranh giải phóng của các dân tộc đã trở nên gay gắt và tăng lên không ngừng.

Như vậy là những tiền đề kinh tế – xã hội khách quan và những điều kiện chủ quan đã có đủ cho thắng lợi của cuộc cách mạng xã hội, nhưng cách mạng chỉ có thể bùng nổ khi xuất hiện một tình thế cách mạng. Chính cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 – 1918) đã dẫn tới sự xuất hiện một tình thế cách mạng đó ở nước Nga.

II. Cách mạng dân chủ tư sản Tháng Hai

Sau ba năm theo đuổi chiến tranh, tới cuối năm 1916 và đầu năm 1917 nước Nga đã lâm vào một tình trạng khủng hoảng kinh tế và xã hội – chính trị trầm trọng. Chiến tranh càng kéo dài càng phơi bày rõ mọi sự lạc hậu về kinh tế và quân sự của đất nước, càng làm gay gắt mọi mâu thuẫn trong xã hội.

Nền công nghiệp của nước Nga đã không đảm bảo được những yêu cầu của cuộc chiến. Quân đội trang bị lạc hậu, thiếu thốn vũ khí và các phương tiện quân sự. Trong khi đó, những kẻ cầm đầu bộ máy chiến tranh lại hết sức thối nát và mang nặng tâm lí chiến bại. Nhiều bộ trưởng và tướng tá ăn tiền đút lót của Đức đã tiết lộ, cung cấp những bí mật quân sự cho chúng. Quân Nga thua trận liên tiếp và tổn thất nặng nề. Năm 1916, quân Đức đã chiếm được Ba Lan và nhiều vùng thuộc Ban Tích.

Chiến tranh đã tàn phá nặng nề và nhiều thảm họa đối với các tầng lớp nhân dân. Đã có tới 1,5 triệu người chết và 4 – 5 triệu người bị thương.

Nền kinh tế quốc dân kiệt quệ, sản xuất công nghiệp và nông nghiệp đình đốn. Vận tải đường sắt không còn đủ sức chuyên chở hành khách và hàng hóa. Nạn thất nghiệp tăng nhanh. Ở các thành phố lớn, việc cung cấp bánh mì, đường sữa ngày càng thất thường. Nạn đói đã xảy ra trầm trọng ở nhiều vùng nông thôn. Phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân đã tăng lên mạnh mẽ.

Chế độ Nga hoàng khủng hoảng trầm trọng, nội bộ giai cấp thống trị ngày càng rạn nứt và mâu thuẫn sâu sắc với nhau. Chính phủ Nga hoàng quyết định giải tán viện Đuma quốc gia, chuyển chính quyền sang tay bọn độc tài quân sự. Chúng bắt đầu đàm phán bí mật và âm mưu kí hòa ước riêng rẽ với Đức để có thể rảnh tay đối phó với phong trào cách mạng, củng cố nền thống trị của chúng. Giai cấp tư sản Nga chống lại việc kí hòa ước đó, bởi nhờ chiến tranh mà họ đã phát tài lớn và thực hiện những tham vọng đế quốc chủ nghĩa. Họ chủ trương theo đuổi cuộc chiến đến cùng. Trước âm mưu của chính phủ Nga hoàng muốn kí hòa ước riêng rẽ với Đức, giai cấp tư sản dự định tiến hành ”một cuộc đảo chính cung đình” lật đổ Nga hoàng Nicôlai II Rômanốp, bắt y trao ngai vàng cho đứa con trai còn nhỏ tuổi, và đưa quận công Mikhain Rômanốp – em trai Nga hoàng, một phần tử tư sản không thân Đức – lên làm phụ chính nắm chính quyền.

Các nước đế quốc Anh, Pháp…đã hoàn toàn ủng hộ giai cấp tư sản Nga. Chế độ Nga hoàng bị cô lập sâu sắc.

Những sự việc nêu trên chứng tỏ rằng một tình thế cách mạng đã hình thành ở trong nước, khi:

+ các giai cấp thống trị không thể tiếp tục thống trị với hình thức cũ;

+ nỗi cùng khổ và quẫn bách của các giai cấp bị áp bức trở nên nặng nề hơn mức bình thường;

+ do những nguyên nhân nói trên, tính tích cực của quần chúng được nâng cao rõ rệt.

Nước Nga đã tiến sát tới cuộc cách mạng, Lênin cho rằng: ”Nội dung xã hội của cuộc cách mạng sắp nổ ra ở nước Nga chỉ có thế là nền chuyên chính dân chủ cách mạng của giai cấp vô sản và nông dân. Cách mạng không thể thắng lợi ở nước Nga, nếu không lật đổ chế độ quân chủ và bọn địa chủ phong kiến. Song giai cấp vô sản không thể lật đổ chúng nếu không được nông dân giúp đỡ”. Trong điều kiện lịch sử mới, khác với cuộc Cách mạng 1905 – 1907, Lênin đã chỉ ra: cuộc cách mạng dân chủ tư sản sắp tới ở Nga có nhiều khả năng thuận lợi và ”hết sức gần” để chuyển sang cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Tới đầu năm 1917, làn sóng đấu tranh chống chính quyền đã bao trùm thủ đô Pêtrôgrát. Trong tháng 1, có tới 250 nghìn công nhân tham gia bãi công, sang tháng 2, số công nhân bãi công lên tới hơn 400 nghìn người.

Tình hình ở thủ đô Pêtrôgrát trở nên đặc biệt căng thẳng.

Ngày 23-2 (tức 8-3 theo công lịch), hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng bộ

Bônsêvích Pêtrôgrát kỉ niệm Ngày Quốc tế phụ nữ, chị em công nhân các nhà máy đã xuống đường biểu tình tuần hành. Công nhân thuộc 50 nhà máy ở thủ đô bãi công hưởng ứng. Ngày hôm đó, có tới 128 nghìn người tham gia đấu tranh với khẩu hiệu đả đảo chiến tranh”, “Đả đảo chế độ chuyên chế”, ”Bánh mì”…Trong những ngày tiếp theo, làn sóng đấu tranh vẫn tiếp tục và ngày càng dâng cao.

Binh lính – chỗ dựa cuối cùng của chế độ ngày càng dao động và đã ngả về phía quần chúng nổi dậy.

Ngày 27-2, khởi nghĩa đã thực sự bao trùm khắp thủ đô. Công nhân chiếm các kho vũ khí và trang bị cho mình. Trong ngày hôm đó, binh lính ở thủ đô ngả hẳn sang phía nhân dân: buổi sáng mới có 10 nghìn người, buổi chiều lên tới 66 nghìn người. Với khí thế mạnh mẽ và lực lượng áp đảo, quần chúng khởi nghĩa đánh chiếm các công sở, nhà ga xe lửa, trung tâm bưu điện, các nhà giam và giải phóng tù chính trị. Các bộ trưởng và tướng tá bị bắt giam. Quần chúng khởi nghĩa đã làm chủ tình hình ở thủ đô.

Ngày 28-2, sau khi thấy bất lực và không còn kiểm soát được tình hình, tướng Khabalốp hạ lệnh cho các đơn vị quân đội ở thủ đô hạ vũ khí.

Ngay trong ngày đầu tiên của cách mạng, Trung ương Đảng Bônêvích đã ra bản Tuyên ngôn tuyên bố chế độ Nga hoàng đã bị sụp đổ, kêu gọi công nhân và binh lính hãy nhanh chóng thành lập Chính phủ cách mạng lâm thời bao gồm các đại biểu nhân dân, thiết lập nền cộng hòa dân chủ, thực hiện các quyền tự do dân chủ và ý chí của nhân dân.

Chiều ngày 27-2, tại cung điện Tavritrécxki ở thủ đô, các đại biểu đầu tiên (được bầu ở các nhà máy, xí nghiệp và các đơn vị quân đội) đã ra mắt và thành lập một tổ chức cách mạng thống nhất như một cơ quan chính quyền mới – Xô viết đại biểu công nhân và binh lính Pêtrôgrát.

Tin thắng lợi của cuộc khởi nghĩa ở thủ đô đã bay nhanh tới các địa phương trong nước. Công nhân và nhân dân ở Mátxcơva, các thành phố và các địa phương đã nhanh chóng nổi dậy lật đổ chế độ cũ, thành lập các Xô viết đại biểu công nhân, binh lính và Xô viết đại biểu nông dân. Các Xô viết – cơ quan khối liên minh công nhân và nông dân – từ những cơ quan lãnh đạo khởi nghĩa trở thành những cơ quan chính quyền cách mạng.

Như thế, trên phạm vi cả nước, cuộc Cách mạng dân chủ tư sản tháng hai năm 1917 đã thắng lợi. Đó là một sự kiện có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với nước Nga – chế độ Nga hoàng chuyên chế thống trị nhân dân từ bao đời nay đã bị sụp đổ chỉ trong vòng 8 ngày. Nước Nga đã trở thành nhà nước cộng hòa dân chủ. Nhưng sau Cách mạng tháng Hai, một tình hình chính trị phức tạp chưa từng có đã diễn ra ở nước Nga.

Lúc này, Xô viết Pêtrôgrát hoàn toàn có khả năng nắm chính quyền cũng như thực hiện chuyển toàn bộ chính quyền về tay các Xô viết ở các địa phương. Nhưng các thủ lĩnh mensêvích và Xã hội cách mạng – với quan điểm mà họ theo đuổi rằng, sau cách mạng tư sản, chính quyền là thuộc về giai cấp tư sản – đã bí mật tiến hành thương lượng và thỏa hiệp với các đảng tư sản. Các Xô viết đã không ủng hộ đề nghị của những người Bônsêvích về việc thành lập Chính phủ cách mạng lâm thời của chính các Xô viết. Trong phiên họp ngày 2-3, Ban chấp hành Xô viết Pêtrôgrát đã thông qua nghị quyết chuyển giao chính quyền cho giai cấp tư sản.

Cùng ngày 2-3, đươc sự ủng hộ của các thủ lĩnh mensêvích và Xã hội cách mạng, Ủy ban lâm thời của viện Đuma quốc gia đã thành lập Chính phủ lâm thời do huân tước Lơvốp làm thủ tướng. Tham gia Chính phủ lâm thời có các thủ lĩnh các đảng : đảng Cađê (Dân chủ lập hiến) của giai cấp tư sản, đảng Tháng Mười của địa chủ ”tư sản hóa” và một đại biểu của Đảng Xã hội cách mạng là Kêrenxki.

Như thế, sau Cách mạng tháng Hai ở Nga đã hình thành một tình hình độc đáo là có hai chính quyền song song tồn tại. Chính phủ tư sản lâm thời và Xô viết đại biểu công nhân, nông dân và binh lính. Hai chính quyền này đại diện cho lợi ích của các giai cấp khác nhau nên không thể cùng tồn tại trong một nước và sự xung đột giữa chúng là không thể tránh khỏi.

III.Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười

1.Các lực lượng chính trị sau Cách mạng tháng Hai. Chính sáchcủa Chính phủ lâm thời.

Cách mạng tháng Ha ikhông những đã đưa tới tình trạng hai chính quyền mà còn làm thay đổi đáng kể sự tập hợp lại các lực lượng chính trị trong nước. Các lực lượng cực hữu như phái quân chủ Trăm Đen đã không còn tồn tị. Các đảng phái hữu khác như Tháng Mười, Tiến Bộ bị khủng hoảng sâu sắc.

Đảng Cađê – đảng tư sản tự do lớn nhất đã trở thành đảng cầm quyền, giữ các vị trí then chốt trong Chính phủ lâm thời (lúcnày đảng có tới 70 nghìn người). Tại Đại hội lần thứ bảy (3-1917), Đảng Cađê tuyên bố từ bỏ chủ trương trước đây là thiết lập chế độ quân chủ lập hiến và “nước Nga cần phải trở thành một nước cộng hòa đại nghị và lập hiến”. Đại hội tuyên bố nhiệm vụ quan trọng nhất của đảng là thiết lập chính quyền duy nhất của Chính phủ lâm thời và tiếp tục cuộc chiến tranh đến “thắng lợi hoàn toàn và triệt để đối với kẻ thù”. Trong vấn đề dân tộc đảng Ca đê chủ trương nướcNga thống nhất và không chia cắt; còn về vấn đề ruộng đất, nhà nước sẽ chuộc lại một phần ruộng đất của địa chủ.

Những chủ trương có tính cương lĩnh của Đảng Cađê đã trở thành đường lối vàchính sách của Chính phủ lâm thời.

Như thế, Đảng Cađê và Chính phủ lâm thời đều không quan tâm giải quyết những đòi hỏi cấp bách mà nhân dân Nga mong muốn kh itiến hành cách mạng: hòa bình, ruộng đất, tự do và bánh mì. Chính phủ lâm thời vẫn tiếp tục cuộc chiến tranh đế quốc chủ nghĩa duy trì chế độ sở hữu ruộng đất lớn của giai cấp địa chủ, không ban hành luật làm việc 8 giờ đối với công nhân và duy trì hầu như nguyên vẹn bộ máy nhà nước cũ của chế độ Nga hoàng.

Sau Cách mạng tháng Hai, số lượng đảng viên và ảnh hưởng của các đảng thỏa hiệp đã tăng lên rõ rệt. Đảng Xã hội cách mạng có tới 800 nghìn người, Đảng mensêvích – 200 nghìn đảng viên.

Các Đảng Xã hội cách mạng và Đảng mensêvích đều thay đổi lập trường, hoàn toàn ủng hộ Chính phủ lâm thời và chủ trương hợp tác với các đảng tư sản. Họ cho rằng, khi chế độ Nga hoàng bị sụp đổ thì cách mạng đã thành công, mục đích của cách mạng đã đạt được, như vậy không cần thiết và cũng không thể nói tới sự phát triển của cách mạng lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cuộc cách mạng ngày nay – cuộc cách mạng tư sản, theo họ phải thuộc về giai cấp tư sản. Họ còn lập luận: không thể đốt cháy giai đoạn và can thiệp thô bạo vào tiến trình tự nhiên của lịch sử.

Các đảng thỏa hiệp muốn tránh mọi xung đột với các đảng tư sản và chủ trương thỏa hiệp với các giai cấp, các tầng lớp xã hội. Vì vậy, họ đã từ bỏ mọi yêu cầu căn bản của các cải cách quan trọng như xây dựng nhà nước mới, vấn đề ruộng đất với việc thủ tiêu chế độ sở hữu ruộng đất của địa chủ, chế độ ngày làm việc 8 giờ của công nhân. Trong chính sách đối ngoại, họ chủ trương nguyên tắc “vệ quốc cách mạng” có nghĩa là tiếp tục cuộc chiến tranh với các nước thuộc phe Đức. Như thế, các Đảng Xã hội cách mạng và mensêvích đã công khai ủng hộ và trở thành chỗ dựa của Chính phủ lâm thời và giai cấp tư sản.

Từ sau Cách mạng tháng Hai, Đảng Bônsêvích ra hoạt động công khai và lúc này số lượng đảng viên của Đảng còn ít ỏi (khoảng 24 nghìn người). Từ nước ngoài, V.I Lênin theo dõi sát sao tình hình nước Nga và đã gửi nhiều thư cho Đảng bônsêvích (sau này được tập hợp lại với tên gọi Thư từ nước ngoàigửivề), trong đó Người chỉ rõ sự cần thiết phải tiếp tục phát triển cách mạng tới giai đoạn thứ hai, giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đối với Chính phủ lâm thời, Lênin nhấn mạnh: “Tuyệt đối không tín nhiệm, không ủng hộ chính phủ mới một chút nào cả, đặc biệt nghi ngờ Kêrenxki…Nhưng ở trong nước, nội bộ Đảng và cả trong những người lãnh đạo (như Camênhép, Xtalin…) lại có những nhận thức và quan điểm khác nhau. Một số ủng hộ quan điểm của Lênin, một số kháclại chủ trương“ủng hộ có điều kiện”Chính phủ lâm thời, gây áp lực, thậmchí mở những cuộc đàm phán hòabình với Chính phủ lâm thời. Nhữngquan điểm sai trái như thếcóthể gây cho quần chúng nhữngảo tưởng đốivới Chính phủ lâm thời và vẫnđểcho giai cấp tư sản nắm chính quyền trong nước…

Cách mạng sẽ tiến lên như thế nào? Sự có mặt của lãnh tụ của Đảng V.I. Lênin đã trở thành một đòi hỏi hết sức cấp bách, không thể thiếu được để đưa cách mạng tiến lên.

2. Luận cương tháng Tư của Lênin và đường lối của Đảngbônsêvích

Từ Thụy Sĩ, đêm 3-4-1917, Lênin về tới Pêtrôgrát. Ngày hôm sau 4-4-1917, tại điện Tavritrécxki trước Trung ương Đảng và Ban chấp hành

Đảng bộ Pêtrôgrát, Lênin đã trình bày bản báo cáo quan trọng “Nhiệm vụ của giai cấp vô sản trong cuộc cách mạng hiện nay” (sau này đã đi vào lịch sử với tên gọi Luận cương tháng Tư). Lênin đã bác bỏ cái gọi là ”sự hoàn thành cách mạng dân chủ tư sản”, rằng đó chỉ là một sự mị dân và tuyên bố Đảng phải nhanh chóng, lập tức tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Trước hết, Lênin cho rằng bước ngoặt ở nước Nga sẽ lôi cuốn hàng loạt cuộc cách mạng xã hội ở các nước phát triển phương Tây và sựủng hộ từ các cuộc cách mạng đó sẽ cho phép khẳng định chủ nghĩa xã hội ở Nga. Hàng loạt các sự kiện cách mạng sôi nổi ở cácnước Tây Âu sau Chiến tranh thế giới thứ nhất đã khẳngđịnh những dựđoán đúng đắn của Lênin.

Đối với tình hình trong nước, Lênin tin rằng các đảng tư sản và thỏa hiệp sẽ không thểnhanh chóng và triệt để giải quyết các vấn đề cấp báchnhất của nước Nga lúc bấy giờ: ruộng đất cho nông dân, hòa bình cho nhân dân, bánh mì cho công nhân, tự do cho các dân tộc bị áp bức và chấm dứt chiến tranh.

Lênin cũng thấy rõ: khác với giai cấp tư sản Tây Âu đã trải qua trường học hoạt động nhà nước, giai cấp tư sản Nga còn non kém về chính trị.

Từ sự phân tích trên, Luận cương của Lênin đã đề ra đường lối chuyển biến từ cách mạng dân chủtư sản sang cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đó là tư tưởng cơ bản xuyên suốt trong Luận cương và được dựa trên những căn cứ khoa học.

Luận cương đã lên án cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất mà nước Nga đang theo đuổi là “một cuộc chiến tranh cướp bóc có tính chất đế quốc chủ nghĩa”và các nước tham chiến cần nhanh chóng chấm dứt chiến tranh,thiết lập một nền ”hòa bình thật sự dân chủ”.

Vấn đề cơ bản của cách mạng là vấn đề chính quyền. Cần phải chấm dứt tình trạng hai chính quyền, trước mắt là ”tuyệt đối không ủng hộ Chính phủ lâm thời” (vì còn dựa được vào sự ủng hộ của các Xô viết do bọn thỏa hiệp chiếm đa số) và sẽ tiến tới xóa bỏ nó; tập trung toàn bộ chính quyền về tay các Xô viết – ”chính quyền cho giai cấp vô sản và những tầng lớp nghèo trong nông dân”.

Chế độ chính trị mới sẽ là chế độ Cộng hòa Xô viết đại biểu của công nhân và binh lính, chứ không phải trở lại chế độ cộng hòa đại nghị. Bởi đó“sẽ là một bước thụt lùi”.

Bằng khẩu hiểu“Tất cả chính quyền về tay các Xô viết” (trải qua hai bước: xóa bỏ Chính phủ lâm thời, tập trung quyền lực về tay các Xô viết;và sau đó cuộc đấu tranh sẽ diễn ra trong nội bộ các Xô viết – giữa nhữngngười bônsêvích và các phần tử thỏa hiệp mensêvích và Xã hội cách mạng sẽ diễn ra bằng phương pháp hòa bình với thắng lợi cuối cùng của những người bônsêvích. Giải thích về khả năng phát triển hòa bình của cách mạng, Lênin viết: ”Vũ khí nằm trong tay nhân dân, không có một bạo lực nào từ bên ngoài áp chế nhân dân cả, thực chất của tình hình là như thế.Tình hình đó đã mở ra và đảm bảo cho sự phát triển hòa bình của toàn bộ cuộc cách mạng. Cách mạng phát triển một cách hòa bình là một khả năng rất hiếm, rất quí báu, phải tận dụng nó và Lênin cũng nhắc nhở Đảng phải chuẩn bi lực lượng sẵn sàng, khi hoàn cảnh tạo rakhả năng đó có thể thay đổi. Về kinh tế, Luận cương đề ra: tịch thu không bồi thường ruộng đất của địa chủ, quốc hữu hóa và giao cho các Xôviế tnông dân quản lí; hợp nhất ngay tất cả các ngân hàng trong nước thành một ngân hàng quốc gia duy nhất dướ isự kiểm soát của các Xô viết, thực hiện việc kiểm soát của các Xô viết đối với sản xuất xã hội và phân phối sản phẩm.

Về xây dựng Đảng,Luận cương đề nghịđổi tên thành Đảng Cộng sản và thành lập một Quốc tế cách mạng mới của giai cấp công nhân.

Hội nghị toàn quốc bônsêvích họp cuối tháng 4 -1917 đã tán thành Luận cương của Lênin và coi đó là đường lối của toàn Đảng để tiến tới cách mạng xã hội chủ nghĩa. Toàn bộ sự phát triển của các sự kiện sau đó ở Nga đã khẳng định tính đúng đắn của những luận điểm và dự kiến của Lênin.

Đảng bônsêvích bước vào một thời kỳ đấu tranh mới.

3.Cách mạng phát triển hòa bình dưới khu hiệu “Tất cả chính quyền về tay Xô viết” (từ tháng 3 đến tháng 7 – 1917)

Dưới ánh sáng của Luận cương tháng Tư, Đảng bônsêvích đã đẩy mạnh các hoạt động trong quần chúng. Nhiệm vụ quan trọng nhất của toàn Đảng là đấu tranh giành đa số quần chúng nhân dân, tiến tới thành lập một đội quân chính trị đông đảo đủ sức lật đổ giai cấp tư sản, cô lập và đánh bại các đảng thỏa hiệp mensêvích và Xã hội cách mạng.

Ngày 18-4 (tức 1-5), Bộ trưởng ngoại giao của Chính phủ lâm thời là Miliucốp cam kết Chính phủ lâm thời sẽ thi hành các hiệp ước mà Chính phủ Nga hoàng đã ký kết trước đây và nước Nga sẽ tiếp tục tham chiến cho đến thắng lợi cuối cùng. Công hàm củaChính phủ lâm thời đã gây nên sự căm phẫn lớn trong nhân dân và làm bùng nổ một làn sóng biểu tình của hơn 100 nghìn công nhân và binh lính ở Pêtrôgrát cùng nhiều thành phố khác. Chính phủ lâm thời bị khủng hoảng. Miliucốp và bộ trưởng chiến tranh Gusơcôp phải từ chức. Chính phủ lâm thời phải tiến hành cải tổ với sự tham gia của 4 đại biểu mensêvích và Xã hội cách mạng cùng 10 đại biểu Đảng Cađê và Tháng Mười. Cuộc biểu tình tháng Tư không phải là một cuộc biểu tình thông thường và nó chứng tỏ lòng tin của quần chúng nhân dân đối với Chính phủ lâm thời đã bắt đầu giảm sút. Sự kiện này còn chứng tỏ các đảng thỏa hiệp mensêvích và Xã hội cách mạng đã công khai đứng về phía giai cấp tư sản và đã cứu Chính phủ lâm thời trong cuộc khủng hoảng đầu tiên đó.

Ngày 3-6, Đại hội Xô viết toàn Nga lần thứ nhất khai mạc tại Pêtrôgrát. Đại hội đã bầu ra Ban chấp hànhTrung ương toàn Nga với đa số thành viên là mensêvích và Xã hội cách mạng. Đại hội thông qua nghị quyết tán thành sự liên minh với giai cấp tư sản và ủng hộ các chính sách của Chính phủ lâm thời. Tại đại hội chỉ có những người bônsêvích đòi chuyển toàn bộ chính quyền cho các Xô viết, và Lênin tuyên bố: Đảng bônsêvích sẵn sàng nắm lấy toàn bộ chính quyền.

Lời tuyên bố của Lênin càng được tăng thêm sức mạnh bởi một cuộc biểu tình tuần hành khổng lồ của gần 500 nghìn công nhân và binh lính ở Pêtrôgrát vào ngày 18-6 do những người bônsêvích tổ chức. Biểu tình còn diễn ra ở nhiều thành phố khác. Quần chúng biểu tình đã giương cao những khẩu hiệu bônsêvích để bày tỏ ý chí của mình trước những nghị quyết sai trái củaĐại hội: “Toàn bộ chính quyền về tay các Xô viết”, “Đả đảo các bộ trưởng tư sản”, “Đả đảo chiến tranh”. Đó là một thắng lợi to lớn của Đảng Bônsêvích, chứng tỏ giai cấp công nhân và binh lính ở thủ đôcùng nhiều nơi khác đã đi theo những người bônsêvích bởi họ khôngcòn tin tưởng ở Chính phủ tư sản lâm thời cũng như các đảng thỏahiệpmensêvích và Xã hội cách mạng.

4. Tiến tới khởi nghĩa vũtrang giành chính quyền

Cùng ngày 18-6, Bột rưởng chiến tranh Kêrenxki ra lệnh cho quân đội Nga mở một cuộc tấn công lớn ở mặt trận Tây-Nam. Cuộc tấn công đã bị thất bại nhanh chóng và tổn thất nặng nề. Tin thất bại bay về hậu phương làm cho nhân dân hết sức phẫn nộ và sục sôi khí thế đấu tranh.

Ngày 3-7, nhiều cuộc biểu tình của công nhân và binh lính đã tự phát nổ ra ở thủ đô, thậm chícòn muốn lật đổ Chính phủ lâm thời.

Ngày 4-7, một cuộc biểu tình khổng lồ đã diễn ra ở Pêtrôgrát. Hơn 500 nghìn công nhân, binh lính và lính thủy đã xuống đường. Mặc dầu cuộc biểu tình hoàn toàn mang tính chất hòa bình và có tổ chức, nhưng Chính phủ lâm thời, được sự ủng hộ của các thủ lĩnh mensêvích và Xã hội cách mạng, đã ra lệnh cho quân đội và cảnh sát bắn vào đoàn biểu tình. Đường phố thủ đô đẫm máu công nhân và binh lính. Hơn 400 người bị chết và bị thương. Đó là một sự kiện cực kì nghiêm trọng.

Được sự khuyến khích của các nước đế quốc, Chính phủ lâm thời quyết định chuyển sang tấn công đàn áp phong trào cách mạng, thiết lập một trật tự mới. Pêtrôgrát bịgiới nghiêm. Các trung đoàn tham gia biểu tình bị tước vũ khí và đưa ra ngoài thủ đô. Quân đội từ mặt trận được gọi về. Các tòa báo của Đảng bônsêvích bị đóng cửa và bị đập phá. Hơn thế nữa,Chính phủ tư sản còn kết tội Lênin và nhiều nhà lãnh đạo Đảng bônsêvích là phản quốc, làm gián điệp cho Đức”. Bị truy nã, Lênin phải rời khỏi thủ đô và chuyển sang hoạt động bất hợp pháp. Nhiều đảng viên bônsêvích bị bắt và đưa ra tòa án.

Ngày 8-7, Chính phủ lâm thời cải tổ lần thứ hai để thành lập một ”chính phủ mạnh” do Kêrenxki đứng đầu. Các thủ lĩnh mensêvích và Xã hội cách mạng lãnh đạo các Xô viết tuyên bố chính phủ mới là ”chính phủ cứu cách mạng” và được toàn quyền hành động. Án tử hình ở mặt trận được khôi phục, các tòa án quân sự lưu động được thiết lập, các đơn vị quân đội còn kéo tới nhiều thành phố. Trên thực tế, quyền lực đã hoàn toàn về tay Chính phủ lâm thời, và như thế tình trạng hai chính quyền đã chấm dứt.

Cuộc đấu tranh đã chuyển sang một thời kì mới. Từ nay quyền lực quân sự – Lênin viết – và do đó cả quyền lực nhà nước, thực sự đều chuyển sangtay phe phản cách mạng do bọn Dân chủ lập hiến đại diện và được bọn Xã hội cách mạng và bọn mensêvích ủng hộ.Từ nay, không còn có khả năngphát triển hòa bình cuộc cách mạng ở nước Nga nữa và lịch sử đặt vấn đề như thế này : hoặc là phe phản cách mạng hoàn toàn thắng lợi, hoặc là phải có một cuộc cách mạng mới.

Sự kiện đầu tháng Bảy đã đánh dấu một bước ngoặt trong tình hình nước Nga.Sự phân cực của các lực lượng giai cấp và chính trị không ngừng tăng lên. Trong khi đó, cuộc chiến tranh vẫn được Chính phủ lâm thời tiếp tục càng đẩy nước Nga lún sâu hơn nữa vào khủng hoảng kinh tế và chính trị.

Đảng bônsêvích triệu tập Đại hội VI (từ 26-7 đến 3-8-1917) tại Pêtrôgrát.

Đại hội phải họp bí mật. Vì bị truy nã, Lênin không tham dự đại hội song những bài viết, những ý kiến của Người đã trở thành cơ sở cho các nghị quyết của đại hội.

Vấn đề trung tâm của đại hội là phân tích tình hình chính trị đã thay đổi ở trong nước và xác định đường lối sách lược mới cùng khẩu hiệu chính trị mới của đảng. Đại hội quyết định tạm thời rút khẩu hiệu ”Toàn bộ chínhquyền vềtay các Xô viết” (nhưng không có nghĩa là đảng từ bỏ chế độ Cộng hòa Xô viết như một hình thức nhà nước mới của chuyên chính vô sản) do các Xô viết bị các phần tử mensêvích và Xã hội cách mang lũng đoạn đã trở thành cái đuôi phụthuộc vào gia cấp tư sản. Những người bônsêvích vẫn ở lại trong các Xô viết để vạch trần sự phản bội của bọn thỏa hiệp và lôi kéo quần chúng về phía cách mạng. Đại hội xác định khẩu hiệu chính trị mới của đảng là ”Lật đổ nền chuyên chính của giai cấp tư sản bằng con đường khởi nghĩa vũ trang!”. Nhiệm vụ chính trị đặt ra trước toàn đảng lúc này là: chuẩn bị và tiến tới khởi nghĩa vũ trang của giai cấp công nhân và nông dân nghèo để lật đổ Chính phủ lâm thời,thiết lập nền chuyên chính vô sản, đưa đất nước thoát ra khỏi cuộc chiến tranh đế quốcchủ nghĩa.

Đảng bônsêvích đã phát triển nhanh chóng về số lượng. Trong ba tháng kể từ Hội nghị tháng Tư, các tổ chức đảng đã tăng từ 78 lên 162 cơ sở với 240 nghìn đảng viên.

Trong khi đó, các thế lực phản động phát hữu lại theo đuổi một đường lối khác là thiết lập nền độc tài quân sự, bởi các biện pháp của Chính phủlâm thời nhằm chống lại tình trạng rối ren, khôngổn định, ngày càng tỏra không có hiệu quả.

Nhằm tập hợp và củng cố lực lượng, ngày 12-8 Chính phủ lâm thời đã triệu tập Hội nghị quốc gia tại Mátxcơva. Tham dự hội nghị có đại biểu của giai cấp tư sản và địa chủ, nhà thờ, các sĩ quan và tướng lĩnh, các cựu đại biểu Đuma trước kia và ban lãnh đạo các Xô viết. Theo lời kêu gọi của Đảng bônsêvích, đúng ngày khai mạc hội nghị, giai cấp công nhân với khoảng 400 nghìn người đã tổng đình công để phản đối và ngăn chặn âm mưu phản cách mạng của giai cấp tư sản. Đấu tranh và đình công cũng diễn ra ở nhiều thành phố khác. Tình hình đó càng thúc đẩy giai cấp tư sản thực hiện âm mưu thiết lập chế độ độc tài quân sự và tướng Coócnilốp (vốn là một tù binh trốn thoát từ Áo và vừa được cử làm Tổng tư lệnh quân đội Nga vào tháng 7-1917) trở thành nhân vật trung tâm của hội nghị. Đại sứ Anh tại Nga là G.Buycơnen đã ủng hộ âm mưu đó. Ngay sau hội nghị, Coócnilốp đã ra lệnh giải thể 50 sư đoàn “không còn khả năng chiến đấu” (thực ra đó là sư đoàn chịu ảnh hưởng của cách mạng) và thành lập 33 sư đoàn xung kích được coi là lực lượng chủ yếu để đối phó với phong trào cách mạng.

Ngày 25-6-1917, với sự thỏa thuận bí mật của Kêrenxki, Coócnilôp đã điều quân đoàn kị binh của tướng Crưmốp và hai sư đoàn kị binh khác từ mặt trận phía tây tiến và Pêtrôgrát với cá cớ được tung ra là ”hình nhưnhững người Bônêvích sẽnổi dậy khởi nghĩa vào ngày 27-8 nhân kỉ niệm nửa năm thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Hai”.

Nhưng ngày hôm sau, Kêrenxkiđược tin là sau khi tiến vào Pêtrôgrát,Coócnilốp sẽ tuyên bố thiết quân luật toàn thủ đô và không chỉ công khai đánh tan Đảng bônsêvích,thủ tiêu các Xô viết mà còn giải tán Chính phủ lâm thời,nắm toàn bộ quyền lực dân sự và quân sự trong tay thiết lập một chính phủ độc tài quân sự. Ngày27-8, Kêrenxki tuyên bố: các đơn vị của Coócnilốp hành quân về Pêtrôgrát làm phản loạn sẽ bị trừng phạt và cách chức tổng ư lệnh quân đội của Coócnilốp.

Coi Coócnilốp là kẻ thù nguy hại nhất,Đảng bônsêvích đã kêu gọi và tổ chức giai cấp công nhân và nhân dân bảo vệ thủ đô Pêtrôgrát. Công nhân đường sắt phá hoại ngầm các đoàn tầu chuyên chở quân phiến loạn. Các đội Cận vệ đỏ – lực lượng vũ trang của công nhân được nhanh chóng thành lập ở các Công nhân canh giữ bảo vệ các nhà máy và nhà ga xe lửa. Quần chúng nhân dân đào chiến hào, dựng chướng ngại vật và bóc cả đường sắt. Nhờ sự tuyên truyền giải thích của những người bônsévích và công nhân, các đơn v quân đội củ Coócnilốp đã ngả về phía nhân dân, từ chối tiến về thủ đô và bắt giữ các sĩ quan phản động. Tướng Crưmốp bị xử bắn,còn Coócnilốp bị bắt giam.

Cuộc nổi loạn của Coócnilốp đã bị đập tan. Âm mưu của giai cấp tư sản muốn thiết lâp chế độ độc tài và dùng lực lượng quân sự đè bẹp phong trào cách mạng đã bị thất bại nặng nề.Lực lượng so sánh giai cấp trong nước đã có những chuyển biến rõ rệt, ngày càng có lợi cho các lực lượng cách mạng. Đó là thờí kì’ ‘bônsêvích hóa” các Xôviết, mà khởi đầu là ngày 31-8, Xô viết Pêtrôgrát lần đầu tiên thông qua nghị quyết tán thành lâp trường của Đảng bônsêvích là chuyển toàn bộ chính quyền về tay các Xô viết và quyết định thay thế các đại biểu mensêvích và Xã hội cách mạng bằng những người bônsêvích trong ban lãnh đạo Xô viết.

Sau đó từ tháng 9, Xô viết Mátxcơva cùng nhiều thành phố, nhiều địa phương khác đều có những thay đổi như Xô viết Pêtrôgrát. Chỉ trong một thời gian ngắn, đã có trên 250 Xô viết đi theo lâp trường bônsêvích. Đồng thời, ngay trong thời kìđấu tranh chống Coócnilốp, số lượng các Xôviết ở trong nước đã tăng lên nhanh chóng, 600Xô viết vào tháng Ba lên tới 1600 Xô viết trong tháng Chín. Tới lúc này, Đảng bônsêvích quyết định đưa trở lại khẩu hiệu ”Tất cả chính quyền về tay các Xô viết”, nhưng với nội dung mới là tiến hành khởi nghĩa vũ trang lật đổ Chính phủ lâm thời và giành toàn bộchính quyền.

Đảng bônsêvích tích cực chuẩn bị cho một cuộc khởi nghĩa vũ trang.

5.Thng lợi của Cách mạng tháng Mười

Từ mùa thu năm 1917, nước Nga đã lâm vào một cuộc khủng hoảng kinh tế và chính trị hết sức trầm trọng. Nền kinh tế đất nước thực sự đứng trước thảm họa, sản xuất công nghiệp chỉ bằng 36,4% so với năm trước. Giao thông vận tải hầu như bị tê liệt. Nạn đói đã xảy ra ở nhiều vùng trong nước, nhất là ở các thành phố. Các mâu thuẫn xã hội càng thêm gay gắt. Phong trào đấu tranh của công nhân, nông dân, binh lính và các dân tộc thiểu số diễn ra sôi nổi, dồn dập với quy mô rộng lớn. Một tình thế cách mạng đã hình thành ở trong nước, khi quần chúng nhân dân “bên dưới ”đã không thể sống tiếp tục như trước đây, các giai cấp thống trị đã lún sâu vào khủng hoảng, không thể tiếp tục thống tri như trước.

Sau vụ nổi loạn của Coócnilốp, nền thống trị của giai cấp tư sản bị lung lay dữ dội.Nhằm củng cố địa vị thống trị và cố gieo rắc những ảo tưởng dân chủ trong nhân dân để mong ổn định tình hình trong nước, ngày 1-9-1917, nước Nga tuyên bố là một nước cộng hòa với chế độ Đốc chính gồm năm bộ trưởng do Kêrenxki cầm đầu. Nhưng phải tới gần một tháng, ngày 25-9, Kêrenxki mới lập được nội các mới Chính phủ lâm thời và các đảng thỏa hiệp còn triệu tập cái gọi là “Hội nghị dân chủ”- để lập ra Tiền nghị viện- với dụng ý là nước Nga đã thực hiện nghị viện. Những người bôn sê vích đã tẩy chay cả Hội nghị dân chủ lẫn Tiền nghị viện.

Tới giữa tháng 9, Lênin nhận định: “Hiện nay, tình thế đã thay đổi khác hẳn. Chúng ta đã giành đươc đa số trong giai cấp đứng làm đội tiên phong của cách mạng, đội tiên phong của nhân dân và có khả năng lôi cuốn quần chúng theo mình. Chúng ta đã giành được đa số trong nhân dân. Thắng lợi chắc chắn thuộc về chúng ta”.

Nước Nga đã tiến sát tới một cuộc khởi nghĩa vũ trang.

Theo nghị quyết của Trung ương Đảng bônsêvích, ngày 7-10-1917, Lênin từ Phần Lan đã bí mật trở về Pêtrôgrát để trực tiếp lãnh đạo cuộc khởi nghĩa.

Trong hai cuộc họp vào ngày 10 và 16-10, Trung ương Đảng bônsêvích đã thông qua nghị quyết khởi nghĩa vũ trang. Hội nghị đã bác bỏ những ý kiến của Dinôviép và Camênhép về cách mạng sẽ phát triển hòa bình (thông qua cuộc bầu cử vào Tiền nghị viện và dựa vào quá trình “bônsêvích hóa” các Xô viết mà nắm chính quyền) và đưa ra quan điểm cũng như của Trốtxki là khởi nghĩa cần lùi lại để sau Đại hội Xô viết toàn Nga lần thứ hai (để Đại hội biểu quyết về vấn đề chính quyền). Thực chất của cả hai ý kiến này là không tán thành nghị quyết về khởi nghĩa vũ trang.

Ngày 12-10, Xô viết Pêtrôgrát đã cử ra ủy ban quân sự cách mạng để chỉ đạo việc chuẩn bị và tiến hành khởi nghĩa vũ trang ở thủ đô. Ngày 16-10, Trung ương Đảng bônsêvích thành lập Trung tâm quân sự cách mạng để lãnh đạo cuộc khởi nghĩa trong cả nước gồm A.Bupnốp, F.Đdécginxki, Ia.Xvéclôp, I. Xta1in, M.Uritki.

Các tổ chức đảng bônsêvích đã tích cực triển khai những công việc cần thiết trên các mặt chính trị – tư tưởng, tổ chức và kĩ thuật – quân sự để tiến tới khởi nghĩa vũ trang.

Ngày 10-10, trong bài trả lời phỏng vấn của tờ báoĐời sống mới(nửa mensêvích). Caménhép và Dinôviép đã nêu rõ việc họ không tán thành nghị quyết khởi nghĩa vũ trang của Trung ương Đảng bônsêvích. Câu trả lời đó như một tiết lộ báo trước để chính phủ nhanh chóng thi hành những biện pháp khẩn cấp nhằm đập tan các lực lượng cách mạng. Từ mặt trận, 70 tiểu đoàn xung kích và một số trung đoàn độc lập được điều động về bảo vệ những trung tâm lớn như Pêtrôgrát, Mátxcơva, Kiép, Minxcơ …

Ngày 24-10, Chính phủ lâm thời bắt giam các ủy viên của ủy ban quân sự cách mạng, lục soát và đóng cửa các tờ báo của Đảng bônsêvích, ra lệnh chiếm điện Xmônưi…Cùng ngày, Kêrenxki tuyên bố Chính phủ lâm thời sẽ áp dụng mọi biện pháp để tiêu diệt cuộc khởi nghĩa ở Pêtrôgrát.

Trước tình hình đã trở nên hết sức khẩn trương và cực kì nghiêm trọng, Lênin chủ trương phải tiến hành khởi nghĩa ngay. Trong ngày 24-10, Lênin đã ba lần gửi thư tới Trung ương Đảng bônsêvích với yêu cầu làphải khởinghĩa ngay trong đêm đó. Nửa đêm, Lênin đến điện Xmônưi để trực tiếp chỉ đạo cuộc khởi nghĩa ở thủ đô.

Cuộc khởi nghĩa đã bắt đầu

Trong đêm 24 và ngày 25, các đơn vị Cận vệ đỏ của công nhân, binh lính cách mạng và thủy binh hạm đội Ban Tích (tất cả khoảng 200 nghìn người) đã đánh chiếm các vị trí then chốt ở thủ đô – các cầu qua sông Nêva, nhà ga xe lửa, trung tâm bưu điện, nhà máy điện, Ngân hàng quốc gia và các cơ quan quan trọng khác ở thủ đô. Tới sáng 25-10, trừ Cung điện mùa đông và một vài nơi, các lực lượng khởi nghĩa đã làm chủ tình hình ở thủ đô.

Đêm 25-10, quân khởi nghĩa tiến đánh Cung điện mùa Đông. Các Bộ trưởng của Chính phủ lâm thời đã bị bắt giữ. Cuộc khởi nghĩa ở Pêtrôgrát đã giành được thắng lơi hoàn toàn.

Cũng vào đêm 25-10, Đại hội Xô viết toàn Nga lần thứ II đã khai mạc. Đai hội thông qua lời kêu gọi ”Gửi công nhân, binh lính và nông dân” do Lênin dự thảo. Đại hội ra quyết nghị các Xô viết đại biểu công nhân, binh lính và nông dân có trách nhiệm bảo đảm trật tự cách mạng thật sự.

Tối 26-10, trong buổi họp thứ hai Đại hội đã thông qua hai văn kiện đầu tiên của Chính quyền Xô viết -Sắc luật hòa bìnhvàSắc luật ruộng đấtdo Lênin dự thảo. Sắc luật hòa bình lên án cuộc chiến tranh đế quốc chủ nghĩa là ”một tội ác lớn nhất đối với nhân loại” và đề nghị các nước tham chiến hãy nhanh chóng đàm phán để kí kết một hòa ước dân chủ và công bằng – không có thôn tính đất đai và bồi thường chiến tranh. Sắc luật ruộng đất tuyên bố thủ tiêu không bồi thường ruộng đất của giai cấp địa chủ quý tộc và của các sở hữu lớn khác, quốc hữu hóa toàn bộ ruộng đất. Đại hội đã cử ra Chính phủ Xô viết đầu tiên, được gọi làHội đồng ủy viên nhân dân, do Lênin đứng đầu.

Tiếp theo thắng lợi ở Pêtrôgrát, Chính quyền Xô viết đã được thành lập ở Mátxcơva và sau đó ở khắp mọi miền đất nước. Do sự kháng cự điên cuồng của kẻ thù, cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Mátxcơva phải kéo dài từ 26-10 đến 3-11-1917. Nhưng sau đó, với thắng lợi ở hai trung tâm quan trọng là Pêtrôgrát và Mátxcơva, cuộc khởi nghĩa giành chính quyền và thành lập Chính quyền Xô viết ở các địa phương trong nước diễn ra mạnh mẽ. Tới cuối tháng 11, Chính quyền Xô viết đã được thành lập ở 28 tỉnh (trong tổng số 49 tỉnh) thuộc phần lãnh thổ châu Âu của nước Nga.

Đến cuối tháng 3-1918, Chính quyền Xô viết đã giành được thắng lợi hoàn toàn trên phạm vi cả nước Nga rộng lớn. Đó là “thời kì” – như Lênin gọi – tiến quân thắng lợi rực rỡ” của Chính quyền Xô viết.

IV. Cuộc đấu tranh để xây dựng và bảo vệ chính quyền Xô viết

l. Công cuộc xây dưng Chính quyền Xô viết

a. Xây dựng hệ thống chính trị – nhà nước Xô viết

Vấn đề cơ bản của của mọi cuộc cách mạng là vấn đề chính quyền. Sau thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Mười, nhiệm vụ hàng đầu của giai cấp công nhân và nông dân nước Nga là phải đập tan hoàn toàn bộ máy nhà nước cũ của giai cấp tư sản và địa chủ, khẩn trương xây dựng bộ máy nhà nước mới của những người lao động.

Chính quyền Xô viết đã ban hành hàng loạt các đạo luật và sắc lệnh. Ngày 28-10-1917, sắc lệnh thành lập cảnh sát công nông đã được ban hành, thay thế cho các cơ quan cảnh sát của Chính phủ lâm thời (hầu như duy trì nguyên vẹn từ chế độ Nga hoàng). Các bộ của Chính phủ tư sản đều bị thủ tiêu. Các cơ quan của chính quyền tư sản địa chủ ở các địa phương (như các viện Đuma thành phố) đều bị bãi bỏ. Các quan lại, tay chân của Chính phủ lâm thời đều bị sa thải, cách chức.

Từ cuối năm 1917 đến giữa năm 1918 là thời kỳ hệ thống chính trị – nhà nước Xô viết từ trung ương đến địa phương được khẩn trương xây dựng. Đó là Ban chấp hành Trung ương các Xô viết toàn Nga, Hội đồng ủy viên nhân dân (chính phủ), các cơ quan trung ương và các Xô viết các cấp. Đại hội các Xô viết và Ban chấp hành Trung ương Xô viết toàn Nga (cơ quan giữa hai kì đại hội) nắm trong tay quyền lập pháp. Hội đồng ủy viên nhân dân là cơ quan hành pháp. Ở các địa phương, các Xô viết đại biểu nông dân được hợp nhất với các Xô viết đại biểu công nhân và binh lính thành các cơ quan chính quyền duy nhất.

Nhằm xây dựng lực lượng vũ trang của chính quyền Xô viết, ngày 15-1-1918, Lênin kí sắc luật Về tổ chức Hồng quân công nông và ngày 29-1 sắc luật thành lập Hạm đội Đỏ đã được ban hành. Trước đó, ngày 20-12-1917 Ủy ban đặc biệt toàn Nga – cơ quan an ninh quốc gia đã được thành lập. Ủy ban đặc biệt toàn Nga đã có công lao to lớn trong việc đập tan các tổ chức phản cách mạng và các hành động phá hoại của chúng, bảo vệ Nhà nước xã hội chủ nghĩa.

Chính quyền Xô viết đã khẩn trương và triệt để thủ tiêu những tàn tích của chế độ phong kiến nông nô nhằm giải quyết những nhiệm vụ còn lại của cách mạng dân chủ tư sản. Sau sắc lệnh xóa bỏ chế độ ruộng đất của giai cấp địa chủ, Ban chấp hành Xô viết toàn Nga đã ban hành sắc luật xóa bỏ mọi sự phân biệt đẳng cấp, dân tộc và mọi tước vị phong kiến, tất cả mọi người chỉ có một danh hiệu chung là những công dân của nước Cộng hòa Xô viết Nga. Chính quyền Xô viết tuyên bố về sự bình đẳng giữa nam và nữ, quyền tự do tín ngưỡng, quyết định nhà thờ tách khỏi nhà nước và trường học. Từ nay, tôn giáo và nhà thờ là việc riêng của các công dân mọi đặc quyền của nhà thờ đều bị bãi bỏ.

Đối với nước Nga, một quốc gia có nhiều dân tộc, vấn đề dân tộc có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Trong Chính phủ Xô viết đầu tiên, Bộ ủy viên nhân dân về vấn đề dân tộc đã được thành lập do I. Xtalin đứng đầu. Ngay sau khi cách mạng vừa thắng lợi, ngày 2-11-1917 Chính phủ Xô viết đã tuyên bố bản Tuyên ngôn về quyền của các dân tộc nước Nga. Tuyên bố khẳng định những nguyên tắc căn bản của Chính quyền Xô viết đối với các vấn đề dân tộc là:

1.Bình đẳng và chủ quyền của các dân tộc

2.Quyền của các dân tộc nước Nga được tự quyết một cách tự do, kể cả việc tách ra và thành lập các quốc gia độc lập.

3.Xóa bỏ tất cả các đặc quyền và hạn chế về dân tộc và tôn giáo – dân tộc.

4.Các dân tộc thiểu số và các nhóm dân chúng sống trên lãnh thổ Nga được phát triển tự do.

Đó là những nguyên tắc pháp lí quan trọng về vấn đề dân tộc. Trung thành với những nguyên tắc đó, Nhà nước Xô viết đã tán thành quyền tách ra của Ucraina, thừa nhận quyền độc lập của Phần Lan, Ba Lan…;xóa bỏ mọi hiệp ước bất bình đẳng của Chính phủ Nga hoàng trước đây đối với Thổ Nhĩ Kì, Ba Tư (Iran) và các nước khác.

Mặc dầu đã nắm được chính quyền, nhưng Đảng bônsêvích không thủ tiêu ngay Quốc hội lập hiến (được các tầng lớp dân chúng Nga lúc bấy giờ xem như một thể chế dân chủ của đất nước). Quốc hội lập hiến được bầu ra từ ngày 12-2-1917 (tức trước Cách mạng tháng Mười) nên đa số đại biểu thuộc các tầng lớp tư sản – địa chủ và thỏa hiệp. Ngày 5-1-1918, Quốc hội lập hiến khai mạc tại Pêtrôgrát. Với thành phần đa số là các đại biểu tư sản địa chủ, Quốc hội lập hiến đã tuyên bố không thừa nhận Chính quyền Xô viết cũng như mọi sắc lệnh đã ban hành. Quốc hội lập hiến cũng từ chối không thông qua bản “Tuyên ngôn về quyền lợi của nhân dân lao động và bị bóc lột” do Ban chấp hành Xô viết toàn Nga công bố.

Đêm 6-1-1918, Ban chấp hành Xô viết toàn Nga đã thông qua Sắc lệnh giải tán Quốc hội lập hiến.

Ngày 10-1-1918, Đại hội Xô viết toàn Nga lần thứ III đã khai mạc, Đại hội tán thành quyết định của Đảng bônsêvích và Chính phủ Xô viết đối với Quốc hội lập hiến. Đại hội quyết định hợp nhất các Xô viết đại biểu nông dân với Xô viết đại biểu công nhân và binh lính. Đại hội thông qua bảnTuyên ngôn về quyền lợicủa nhân dân lao động và bị bóc lột.Với sự khẳng định nước Nga là một nước Cộng hòa Xô viết và mục tiêu là xóa bỏ mọi chế độ người bóc lột người, xóa bỏ giai cấp, Tuyên ngôn đã trở thành cơ sở cho bản Hiến pháp đầu tiên của nước Nga Xô viết, được thông qua vào tháng 7-1918. Đại hội đã thông qua quyết định lịch sử cải tổ nước Cộng hòa Xô viết Nga thành Cộng hòa Xô viết xã hội chủ nghĩa Liên bang Nga, trên cơ sở liên minh tự nguyện giữa các dân tộc ở nước Nga.

Toàn bộ những biện pháp trên đây của Đảng bônsêvích và Chính quyền Xô viết có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc đập tan bộ máy nhà nước tư sản – địa chủ cũ và hình thành hệ thống chính trị – Nhà nước Xô viết.

b. Bước đầu xây dựng nền kinh tế của chế độ mới

Trước Cách mạng tháng Mười, những người bônsêvích nhận thức nền kinh tế xã hội chủ nghĩa như một nền kinh tế phi thị trường, một nền kinh tế chỉ huy – trong đó không tồn tại sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, tất cả đều được xã hội hóa toàn bộ các mối liên hệ về kinh tế không phải dựa trên quan hệ tiền tệ – hàng hóa mà là theo nguyên tắc phân phối hành chính – sản phẩm từ một trung tâm duy nhất.

Ngày 14-11-1917, bản ”Điều lệ về chế độ kiểm soát của công nhân” đã được ban hành. Theo điều lệ, quyền kiểm soát của công nhân – do các ủy ban nhà máy xí nghiệp đảm nhiệm – được tiến hành trong tất cả các xí nghiệp công nghiệp, thương nghiệp, nông nghiệp, vận tải và các xí nghiệp hợp tác. Các chủ nhà máy đã chống lại kịch liệt. Chúng đóng cửa hàng loạt các nhà máy. Tình hình càng khó khăn thêm, khi sản xuất lâm vào tình trạng hỗn độn do những người công nhân kiểm soát thiếu kinh nghiệm.

Trong tình hình như thế, Chính quyền Xô viết quyết định tổ chức ”Cuộc tấn công của đội Cận vệ đỏ vào giai cấp tư sản”.

Từ cuối tháng 11-1917,Chính quyền Xô viết bắt đầu quốc hữu hóa các nhà máy, xí nghiệp của giai cấp tư sản. Ngày 14-12-1917, Nhà nước Xô viết ban hành Sắc lệnh quốc hữu hóa tất cả các ngân hàng tư nhân và thành lập Ngân hàng nhà nước thống nhất, sau đó là giao thông đường sắt. Tháng l-1918, Chính phủ Xô viết tuyên bố xóa bỏ các món nợ trước kia của Nga hoàng và chính phủ tư sản lâm thời với tổng số tiền là 50 tỉ rúp (nhờ đó, chính quyền mới không phải trả 400 triệu lúp tiền lãi hằng năm). Tháng 4-1918, Chính phủ Xô viết tuyên bố độc quyền ngoại thương và tịch thu các công thương nghiệp của tư bản nước ngoài. Ngày 28-6-1918, Sắc luật quốc hữu hóa toàn bộ nền đại công nghiệp được ban hành và tới đầu tháng 9-1918, hơn 3000 xí nghiệp công nghiệp đã được quốc hữu hóa. Như thế, công cuộc quốc hữu hóa đã được thực hiện nhằm đập tan các thế lực kinh tế tư sản, xóa bỏ các quan hệ tư bản chủ nghĩa và thiết lập hệ thống kinh tế xã hội chủ nghĩa.

Đầu tháng 12-1917, Hội đồng kinh tế quốc dân tối caođã được thành lập nhằm thống nhất quản lí toàn bộ nền kinh tế quốc dân của đất nước, thực hiện những chức năng tổ chức kinh tế của Nhà nước Xô viết.

Theo sư ủy nhiệm của Trung ương Đảng, tháng 4-1918, Lênin viết tác phẩm Những nhiệm vụ trước mắt của Chính quyền Xô viết.Trong tác phẩm này, Lênin kêu gọi cần ”tổ chức thật chặt chẽ sự kiểm soát và kiểm soát của toàn dân đối với sản xuất và phân phối sản phẩm”, củng cố kỉ luật lao động, lôi kéo các chuyên gia tư sản, sử dụng những thành tựu mới nhất của khoa học và kĩ thuật. Tác phẩm của Lênin còn đề ra những nguyên tắc và biện pháp quan trọng để xây dựng thắng lợi nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ở nước Nga, trong đó nguyên tắc tập trung dân chủ là quan trọng nhất.

c. Chính sách ruộng đất ở nông thôn

Từ mùa xuân năm 1918,Sắc luật ruộng đấtbắt đầu được thực hiện nhằm thỏa mãn những nguyện vọng từ lâu đời của người nông dân Nga. Tới mùa hè, việc tịch thu ruộng đất đã được hoàn thành. Nông dân đã nhận được (không phải trả tiền) hơn 150 triệu héc ta ruộng đất từ giai cấp địa chủ, tư sản, nhà thờ và gia đình Nga hoàng. Nông dân đã được giải phóng khỏi những khoản tiền lĩnh canh phải nộp hằng năm, xóa được 3 tỉ tiền nợ các ngân hàng. Chính sách ruộng đất của Chính quyền Xô viết được thực hiện theo hướng vì lợi ích của bần nông. Những nông dân giàu có, chủ yếu là phú nông, đã từ chối không bán lúa mì cho Chính quyền Xô viết. Tình hình lương thực trong nước ngày càng trở nên gay gắt. Nhiều vùng lâm vào nạn đói nghiêm trọng. Tới cuối tháng 4-1918, khẩu phần bánh mì của mỗi công nhân ở Pêtrôgrát giảm xuống chỉ còn 50 gram mỗi ngày, ở Mátxcơva là 100 gram. Vì bị đói và không có nguyên liệu, các nhà máy phải đóng cửa và công nhân bỏ việc. Theo sau nạn đói, những bất mãn trong xã hội tăng lên. Lợi dụng tình trạng đó, các thế lực phản động ngóc đầu dậy, điên cuồng phá hoại để bóp chết Chính quyền Xô viết non trẻ.

Sự thật, nạn đói xảy ra không phải vì nước Nga thiếu lúa mì. Nguyên nhân chủ yếu của tai họa ghê gớm ấy là do phú nông đã không chịu bán lúa mì theo giá quy định của chính quyền Xô viết, đồng thời chúng ráo riết đầu cơ lúa mì để làm giàu nhanh chóng.

Chính quyền Xô viết đã áp dụng những biện pháp kiên quyết nhất nhằm đập tan sự chống đối của phú nông, giành lấy lúa mì từ tay chúng, bảo vệ những thành quả cách mạng.

Theo đề nghị của Lênin, tháng 5-1918 Nhà nước Xô viết đã ban hành hàng loạt sắc lệnh nhằm thiết lập chế độ độc quyền lúa mì trong phạm vi cả nước. Các sắc lệnh quy định cấm đầu cơ lúa mì, phải bán lúa mì theo giá của Nhà Nước, kiểm kê nghiêm ngặt và phân phối chặt chẽ tất cả số lúa mì dự trữ. Tất cả những kẻ cất giấu lúa mì thừa đều bị coi là kẻ thù của nhân dân và bị đưa ra trước tòa án cách mạng. Tháng 6-1918, Chính quyền Xô viết ban hành Sắc lệnh thành lập cácỦy ban bần nôngở nông thôn để thay thế các Xô viết nông thôn đang bị phú nông (chiếm đa số) khống chế. Các Ủy ban bần nông có nhiệm vụ phân phối lúa mì, vật dụng thiết yếu và nông cụ cho bần nông, giúp đỡ các đội công tác thu mua số lúa mì thừa của phú nông và các nhà giàu khác.

Với việc thu ruộng đất và nông cụ của địa chủ cũng như tịch thu một phần của phú nông, quá trình trung nông hóa trong nông dân đã bắt đầu (từ 20% lên 60%). Trung nông đã tin tưởng và đi theo Chính quyền Xô viết. Đó là một sự kiện có ý nghĩa quan trọng ở nông thôn.

Tới cuối năm 1918, sau khi hoàn thành nhiệm vụ, các Ủy ban bần nông đã hợp nhất với các Xô viết thành cơ quan chính quyền duy nhất ở các địa phương (tháng 11-1918 trong cả nước có tới 105 nghìn các ủy ban bần nông. Tuy chỉ tồn tại trong thời gian ngắn, các Ủy ban bần nông đã có công lao to lớn trong việc củng cố Chính quyền Xô viết, đặc biệt là lôi cuốn quần chúng nhân dân trong cuộc đấu tranh chống địa chủ, phú nông và các phần tử bóc lột khác ở nông thôn. Các tổ chức Đảng bônsêvích ở nông thôn trong thời kì này đã phát triển nhanh (tăng 12 lần).

Như thế, cuộc đấu tranh giành lúa mì không chỉ giải quyết vấn đề lương thực mà còn là thắng lợi của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nông thôn, củng cố Chính quyền Xô viết và sự lãnh đạo của Đảng bônsêvích.

d. Địa vị quốc tế của nước Nga Xô viết. Hòa ước Brét Litốp

Bắt tay vào công cuộc xây dựng và cải tạo đất nước. Nhà nước Xô viết và Đảng bônsêvích cần có được một sự ổn định trong quan hệ đối ngoại và an ninh biên giới lãnh thổ. Nhưng các nước phe Hiệp ước Anh, Pháp, Mĩ…đã bác bỏ những đề nghị của Sắc lệnh hòa bình về việc nhanh chóng chấm dứt chiến tranh và kí một hòa ước dân chủ, công bằng giữa các nước tham chiến. Do tình hình ngày càng khó khăn và đứng trước nguy cơ bại trận, Đức và các nước cùng phe đã chấp nhận đề nghị của Chính quyền Xô viết.

Ngày 2-12-1917, tại Brét Litốp,Hiệp định đình chiếnđã được kí kết giữa nước Nga Xô viết với nước Đức và các nước cùng phe, sau đó bắt đầu thảo luận những điều kiện để kí hòa ước, chấm dứt tình trạng chiến tranh giữa hai bên.

Ngày 9-12-1917, cuộc đàm phán bắt đầu. Đoàn đại biểu Xô viết đề nghị kí một hòa ước không có thôn tính đất đai và bồi thường chiến tranh. Lợi dụng tình trạng còn non yếu và cô lập của nước Nga Xô viết, nước Đức theo đuổi một lập trường khác. Họ đưa ra những yêu sách có tính chất xâm lược và nô dịch. Ngày 1-1-1918, đoàn đại biểu Đức đưa ra tối hậu thư, đòi nước Nga phải chuyển giao cho Đức một lãnh thổ rộng tới 150.000 km2 (gồm Ba Lan, Lítva và một phần Bêlarut, tách Ucraina khỏi Nga).

Trước những yêu sách của Đức trong ban lãnh đạo Đảng bônsêvích đã có sự bất đồng sâu sắc. Thiểu số các ủy viên Trung ương Đảng, do Lênin đứng đầu chủ trương phải chấp nhận các yêu sách của Đức với lập trường là phải bảo vệ và giữ vững Chính quyền Xô viết ở nước Nga – ”tiền đồn chủ nghĩa xã hội” của phong trào vô sản thế giới. Bởi ”Hiện nay không có gì và không thể có gì giáng vào sự nghiệp của chủ nghĩa xã hội một đòn mạnh hơn là sự sụp đổ của Chính quyền Xô viết Nga”.

Nhưng đa số các ủy viên Trung ương Đảng lại không tán thành lập trường của Lênin. Họ cho rằng kí hòa ước là sự đẩy lùi vô thời hạn cuộc cách mạng.

Tình hình càng trở nên phức tạp khi trong Đảng xuất hiện những quan điểm đầy nguy hại của Bộ trưởng ngoại giao Trốtxki và nhóm “Cộng sản phái tả” do Bukharin cầm đầu. Trốtxki chống lai việc kí hòa ước, cho rằng nước Đức không thể và sẽ không thể tấn công, bởi hình như quân Đức đang thua ở trên các mặt trận và cho rằng chỉ kí hòa ước khi Chính quyền Xô viết có nguy cơ bị tiêu diệt. Từ đó, Trốtxki đưa ra một công thức đối với cuộc đàm phán là “không hòa, không chiến” nhưng lại chủ trương giải ngũ quân đội. Còn những người “cộng sản phái tả”, Bukharin đã kịch liệt chống lại việc kí hòa ước, thậm chí còn cự tuyệt kí các hiệp định về kinh tế buôn bán với các nước đế quốc nói chung. Họ chủ trương tiến hành cái gọi là “chiến tranh cách mạng”, bất chấp, không cần tính đến những điều kiện khách quan và chủ quan cần thiết.

Lênin lên án gay gắt những quan điểm của Trốtxki và nhóm “cộng sản phái tả” Bukharin.

Ngày 10-2-1918, cuộc đàm phán tiếp tục. Lần này, phái đoàn Đức đưa ra những yêu sách có tính chất tối hậu thư. Không chấp hành chỉ thị của Lênin, Trốtxki – người cầm đầu phái đoàn Xô viết tại cuộc đàm phán đã tuyên bố: Chính phủ Xô viết không kí hòa ước với những điều kiện của nước Đức.

Cuộc đàm phán tan vỡ. Trưa ngày 18-2-1918, quân Đức và Áo đã mở cuộc tấn công trên tất cả các mặt trận nhằm hướng thủ đô Pêtrôgrát. Chúng dự định trên đường tiến công sẽ tiêu diệt các đơn vị Hồng quân, vừa mới lập ra.

Nước Cộng hòa Xô viết lâm nguy!

Ngay chiều 18-2, sau một cuộc đấu tranh hết sức gay gắt, cuối cùng, Ban chấp hành Trung ương Đảng bônsêvích đã giao cho Lênin toàn quyền giải quyết vấn đề chiến tranh và hòa bình của đất nước.

Sáng hôm sau (19-2), thay mặt Chính phủ Xô viết, Lênin gửi điện cho Chính phủ Đức để báo tin nước Nga ”sẵn sàng kí hòa ước chính thức theo những điều kiện do Chính phủ Đức đề ra ở Brét Litốp”. Nhưng Beclin vẫn im lặng. Quân Đức tiếp tục tấn công, uy hiếp Pêtrôgrát và Mátxcơva.

Ngày 21-2, sau cuộc họp bất thường vào đêm trước, Chính phủ Xô viết ban hànhSắc lệnh tổng động viênhuy động toàn bộ lực lượng để bảo vệ nước Cộng hòa Xô viết. Những trận kịch chiến đã diễn ra, quân Đức bị chặn trước Pêtrôgrát. Chỉ sau khi thấy rõ không thể nhanh chóng đánh bại nước Nga Xô viết, Chính phủ Đức mới trả lời đồng ý nối lại cuộc đàm phán với nước Nga.

Ngày 3-3-1918, hòa ước đã được kí tại Brét Litốp nhưng với những điều kiện nặng nề hơn trước rất nhiều. Hòa ước quy định: chấm dứt tình trạng chiến tranh giữa nước Nga Xô viết với các nước thuộc phe Liên minh – Đức, Áo – Hung, Thổ Nhĩ Kì và Bungari; nước Nga phải cắt đi một bộ phận lãnh thổ (rộng 750.000km2 với hơn 50 triệu dân) gồm các nước vùng Ban Tích, Bêlarut, Ba Lan và một phần Ngoại Cápcadơ cho Thổ Nhĩ Kì.

Trên lãnh thổ này có tới 1/3 chiều dài đường sắt của cả nước, sản xuất hơn 70% sản lượng sắt và 90% sản lượng than. Nước Nga phải tiến hành giải ngũ quân đội và bồi thường cho Đức một khoản tiền lớn là 6 tỉ mác.

Hòa ước đã được Đại hội VII Đảng bônsêvích thông qua và được Đại hội Xô viết toàn Nga lần thứ IV phê chuẩn.

Hòa ước được kí kết với cái giá phải trả quá đắt và làm tổn thương tình cảm dân tộc của hàng triệu công dân Nga, nhưng Chính quyền Xô viết đã được giữ vững và nước Nga tranh thủ được một thời gian hòa bình để củng cố lực lượng. Bằng việc kí hòa ước, Lênin đã để lại một bài học sâu sắc cho những người cách mạng các nước: nghệ thuật đấu tranh với kẻ thù – nghệ thuật tấn công và biết rút lui (kể cả thỏa hiệp) khi cần thiết.

Tháng 11-1918, khi cách mạng bùng nổ ở nước Đức, Chính phủ Xô viết đã nhanh chóng tuyên bố xóa bỏ hòa ước Brét Litốp. Những dự đoán của Lênin đã được thực tiễn khẳng định, Người cho rằng hòa ước Brét Litốp sẽ không thể tồn tại lâu dài.

2. Đánh bại thù trong, giặc ngoài

a) Chiến tranh vànổi loạn

Thắng lợi của Cách mạng tháng Mười và sự ra đời của Nhà nước Xô viết đã làm cho các nước đế quốc hết sức lo lắng. Chúng nhanh chóng tập hợp lực lượng phối hợp hành động và ráo riết tiến hành chống phá, mưu đồ bóp chết nước Cộng hòa Xô viết trẻ tuổi. Đó là cuộc nội chiến do các thế lực phản động trong nước và cuộc can thiệp vũ trang của 14 nước đế quốc bên ngoài tiến hành, kéo dài trong ba năm từ đầu năm 1918 đến cuối năm 1920.

Ngay từ cuối tháng 11-1917, các nước đế quốc đã họp nhau tại Pari và bốn nước Mĩ, Anh, Pháp, Nhật Bản đã giữ vai trò chủ yếu trong ”cuộc thập tự chinh chống cộng” này. Tháng 12-1917, quân chư hầu Rumani (được Pháp hỗ trợ) đã chiếm Bétxarabi. Từ tháng 3 đến tháng 4 – 1918, quân đội các nước Hiệp ước đã xuất hiện tại vùng biên giới của nước Nga. Quân đội Anh, Mĩ, Pháp đổ bộ lên hải cảng Muốcmăngxcơ ở phía cực bắc. Quân đội Nhật, sau đó là Mĩ, chiếm Vlađivôxtốc, hải cảng ở miền cực đông nước Nga. Quân Anh lại kéo tới Tuốcmênixtan và Ngoại Cápcadơ. Ngoài quân đội các nước Hiệp ước, quân Đức còn chiếm đóng các nước vùng Ban Tích, một phần Bêlarut, Ngoại Cápcadơ và Bắc Ngoại Cápcadơ. Trên thực tế, quân Đức còn kiểm soát cả Ucraina, dựng lên tại đây một chính quyền thân Đức.

Lúc này, Bộ chỉ huy tối cao các nước Hiệp ước quyết định sử dụng 60 nghìn binh lính của quân đoàn Tiệp Khắc để chống Chính quyền Xô viết.

Ngày 25-5-1918, quân đoàn Tiệp Khắc nổi loạn. Cùng với bọn bạch vệ Nga và các thế lực phản động khác, quân đoàn Tiệp Khắc đã chiếm được toàn bộ vùng Xibia rộng lớn và nhiều thành phố dọc sông Vonga như Xamara, Ximbiếc, Cadan …ở nhiều nơi, Chính quyền Xô viết đã bị lật đổ. Tại Cadan, bọn nổi loạn đã chiếm được kho bạc quốc gia với hơn 600 triệu rúp vàng, đó là phần lớn số vàng dự trữ của Nhà nước Xô viết.

Cuộc nổi loạn của quân đoàn Tiệp Khắc đã đánh dấuthời kìmở rộng can thiệp vũ trangcủa các nước đế quốc.

Theo sau cuộc nổi loạn của quân đoàn Tiệp Khắc và được sự giúp đỡ ráo riết của các nước đế quốc bên ngoài, các thế lực phản động đủ loại trong nước đua nhau nổi đậy ở khắp nơi (như các vùng dọc sông Vonga, Uran, Xibia, Viễn Đông, Trung Á và phía Bắc…). Tại các nơi này, chúng lật đổ Chính quyền Xô viết, dựng lên hàng loạt chính phủ phản cách mạng (như ở Ackhanghenxcơ, Tômxcơ, Askhabát …) với sự tham gia của đa số bọn xã hội cách mang, bọn mensêvích cùng nhiều thành viên của quốc hội lập hiến vừa bị giải tán.

Tình hình càng nghiêm trọng hơn khi sự rối ren lại xảy ra trong nội bộ nước Nga Xô viết. Tại Đại hội Xô viết toàn Nga lần thứ V (7-1918), những phần tử xã hội cách mạng phái tả đòi bãi bỏ ”chế độ độc quyền lúa mì”, hủy bỏ hòa ước Brét Litốp, giải tán các Ủy ban bần nông. Bọn xã hội cách mạng cánh tả còn gây ra vụ ám sát đại sứ Đức tại Nga, chiếm các tòa nhà ở Mátxcơva và tấn công cả vào điện Cremli…

Cuộc nội chiến đã diễn ra trên toàn lãnh thổ. Ở nhiều vùng, các đội quân bạch vệ liên tiếp nổi dậy. Sau khi Coocnilốp chết, tướng Đênikin cầm đầu “Đội quân tình nguyện” đã chiếm phần lớn vùng Bắc Cápcadơ. Đội quân bạch vệ Côdắc của Craxnốp và Mamôngtốp chiếm vùng sông Đông và tiến đánh thành phố Xarixưn (nay là Vongagrát). Đội quân Côdắc của Ataman Đutốp (ở Uran) đã chiếm Ôrenbua – cắt đứt Tuốcmênixtan với trung tâm đất nước.

Như thế, các kẻ thù nổi loạn trong nước và quân nước ngoài can thiệp đã chiếm được một vùng lãnh thổ rộng lớn, từ sông Vonga tới cảng Vlađivôxtôc, trên bờ Thái Bình Dương. Ở hậu phương, bọn phản cách mạng điên cuồng tổ chức những vụ nổi loạn phá hoại và khủng bố ám sát đầy tội ác. Chỉ riêng trong tháng 7-1918 chúng đã nổi loạn ở 23 thành phố thuộc vùng trung tâm nước Nga, kể cả ở ngay thủ đô Mátxcơva. Chúng đã giết hại nhiều cán bộ và công nhân cách mạng. Đặc biệt nghiêm trọng, ngày 30-8-1918 bọn xã hội cách mạng đã ám sát hụt Lênin và cùng ngày chúng giết chết Urixki, Chủ tịch ủy ban đặc biệt toàn Nga ở Pêtrôgrát.

Tình hình lại càng khó khăn hơn do việc quân Đức còn chiếm đóng nhiều vùng đất đai rộng lớn và cung cấp vũ khí cho các đội quân bạch vệ. Trên thực tế, Đức đã cùng các nước đế quốc khác tham gia chống phá nước Nga Xô viết.

Như thế, từ giữa năm 1918 nước Nga Xô viết lâm vào tình hình cực kì gay gắt và khó khăn. Chính quyền Xô viết chỉ kiểm soát được1/4 lãnh thổ của nước Nga sa hoàng trước kia và đã mất đi những vùng lương thực, nguyên liệu và nhiên liệu quan trọng nhất của đất nước.

b) Nước Cộng hòa Xôviết – một mặt trận quân sự thống nhất

Trước những thách thức khốc liệt, Đảng bônsêvích và Nhà nước Xô viết đã trả lời bằng những biện pháp kiên quyết và tập trung toàn bộ sức lực vào một mục tiêu: giữ vững chính quyền Xô viết. Tháng 9-1918, nước Cộng hòa Xô viết được tuyên bố là mộtmặt trận quân sự thống nhấtvới việc thực hiện mọi biện pháp khẩn cấp cho cuộc chiến đấu đánh bại thù trong giặc ngoài. Chính quyền Xô viết tuyên bố thi hành chính sách “khủng bố đỏ” nhằm vào những phần tử có quan hệ với các tổ chức bạch vệ, các âm mưu và bạo loạn”.

Tháng 11-1918, Hội đồng quốc phòng công nông được thành lập do Lênin đứng đầu. Trong tình hình chiến sự khẩn trương, mùa thu năm 1919 các Xô viết ở các vùng mặt trận và gần mặt trận được quy định đều phải phục tùng một cơ quan đặc biệt – các Ủy ban cách mạng. Tháng 6-1919, các nước Cộng hòa Xô viết – Nga, Ucraina, Bêlarút, Litva, Látvia và Extônia đã kí kếtliên minh quân sự,thành lập bộ chỉ huy quân sự thống nhất, tập trung thống nhất mọi điều hành về tài chính, công nghiệp và giao thông vận tải.

Việc xây dựng và củng cố sức chiến đấu của Hồng quân – lực lượng vũ trang của Nhà nước Xô viết – có ý nghĩa cực kì quan trọng và cấp bách. Lênin chỉ rõ: đất nước cần phải có một đội quân 3 triệu người. Chế độ nghĩa vụ quân sự được thực hiện, thay cho chế độ tình nguyện trước đây. Nhờ đó, từ một đội quân chỉ gần nửa triệu người vào trước mùa hè 1918, đến tháng 9-1919 Hồng quân đã có 3 triệu rưỡi chiến sĩ và cuối năm 1920 đã lên tới 5 triệu 300 nghìn người. Trong việc xây dựng lực lượng, Hồng quân đặc biệt coi trọng chất lượng chính trị, nguyên tắc giai cấp và kỉ luật nghiêm minh.

Trong hoàn cảnh đất nước bị bao vây, từ mùa hè 1919, nước Nga Xô viết quyết định chuyển sang thực hiệnChính sách cộng sản thời chiến.Nội dung chủ yếu của Chính sách cộng sản thời chiến là:

– Nhà nước độc quyền lúa mì, cấm tư nhân buôn bán lúa mì. Từ tháng 1-1919, ban hành chế độ trưng thu lương thực thừa đối với nông dân theo nguyên tắc ”không thu một chút gì của nông dân nghèo, thu của trung nông với mức độ vừa phải và thu nhiều của phú nông”. Năm 1920, chế độ này đã được áp dụng với cả việc trưng thu khoai tây, rau đậu và nhiều nông phẩm khác.

– Nhà nước kiểm soát toàn bộ nền công nghiệp. Tháng 11-1920, tiến hành quốc hữu hóa không những đối với đại công nghiệp mà cả công nghiệp hạng vừa và nhỏ. Hội đồng kinh tế quốc dân tối cao (thành lập đầu tháng 12-1917) là cơ quan tập trung việc quản lí, điều hành sản xuất công nghiệp cũng như nền kinh tế quốc dân.

– Thi hành chế độ lao động cưỡng bức đối với toàn dân. Mọi công dân từ 16 đến 50 tuổi đều có nghĩa vụ phải tham gia lao động công ích cho xã hội. Năm 1918, chế độ này được áp dụng đối với các giai cấp bóc lột, năm 1920 – đối với toàn dân và dựa trên nguyên tắc: “Ai không làm thì không hưởng”.

– Trong hoàn cành chiến tranh, đồng tiền bị mất giá nhanh chóng, khắp nơi trên đất nước đã tiến hành việc trả lương bằng hiện vật và phổ biến là dựa theo nguyên tắc bình quân. Chế độ ăn uống không mất tiền được áp dụng đối với trẻ em, công nhân công nghiệp, đường sắt và giao thông.

Chính sách cộng sản thời chiến nhằm huy động tối đa và sử dụng hợp lí mọi nguồn của cải của đất nước, cung cấp những nhu cầu thiết yếu cho quân đội, nhân dân thành thị và nông thôn, phục vụ cho cuộc chiến đấu chống thù trong giặc ngoài.

Vừa chiến đấu vừa xây dựng, Hồng quân và nhân dân Xô viết đã vượt qua được những thử thách cực kì hiểm nghèo, từng bước đẩy lùi các cuộc tấn công của kẻ thù. Trong nửa sau năm 1918, Hồng quân đã đánh tan quân đoàn Tiệp Khắc và bọn bạch vệ, đẩy lùi chúng về bên kia dãy Uran. Ở mặt trận phía nam, Hồng quân cũng giành được những thắng lợi quan trọng, đánh tan quân đoàn sông Đông của tướng Craxnốp. Ở hậu phương, các cuộc bạo loạn của bọn phản cách mạng đều bị trấn áp.

Hồng quân tiếp tục tấn công ở khắp nơi.

c) Năm 1919 – bước ngoặt căn bản trong cuộc nội chiến

Tháng 3-1919, Đảng bônsêvích tiến hành Đại hội lần thứ VII. Đại hội đã thông qua Cương lĩnh mới của Đảng, do Lênin dự thảo, với nội dung chủ yếu là xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa ở nước Nga. Đại hội quyết định đổi tên Đảng, từ tên cũ là Đảng Công nhân xã hội dân chủ Nga (bônsêvích) thànhĐảng Cộng sản Nga(bônsêvích). Đại hội kết thúc vào lúc bọn đế quốc quốc tế và phản động trong nước lại tổ chức một cuộc tấn công mới nhằm tiêu diệt Nhà nước Xô viết.

Từ năm 1919, sau khi cuộc chiến tranh thế giới kết thúc, các nước Anh, Pháp, Mĩ lại tăng cường can thiệp và đẩy mạnh việc giúp đỡ bọn bạch vệ phản động. Các chiến hạm của Anh, Pháp tiến vào bờ Biển Đen thuộc Nga.

Quân Anh đổ bộ lên Batum và Nôvơrốtxixki, còn quân Pháp tiến vào Ôđetxa và Xêvaxtôpôn. Tới tháng 2-1919, quân đội can thiệp của các nước đế quốc tập trung ở miền Nam nước Nga lên tới 130 nghìn tên, còn ở Viễn Đông – 150 nghìn, ở phía bắc – 20 nghìn tên (tất cả là 300 nghìn quân). Tuy nhiên, chúng vẫn coi các đội quân bạch vệ của Cônsắc, Đênikin, Iuđênít và Milerơ là những lực lượng chủ yếu trong cuộc tấn công tiêu diệt Chính quyền Xô viết.

Mùa quăn năm 1919, cuộc tấn công của kẻ thù bắt đầu từ nhiều hướng khác nhau nhằm vào thủ đô Mátxcơva.

Tại phía đông, quân đội bạch vệ của đô đốc Cônsắc (trong đó có quân đoàn Tiệp Khắc) chiếm đóng Xibia và Uran nhằm hướng tiến tới sông Vonga, uy hiếp các thành phố Xamara và Cadan.

Ở phía nam, quân của Đênixkin tiến đánh các thành phố Kiếp, Kháccốp và có lúc uy hiếp cả Tula và thủ đô Mátxcơva.

Quân của tướng Milerơ cùng quân can thiệp Mĩ, Anh, Pháp tấn công từ phía bắc; còn ở phía tây nam là đội quân bạch vệ của tướng Iuđênít..

Ở phía tây, theo lệnh của các nước đế quốc, quân đội bạch vệ Ba Lan đã tiến vào Lítva và Bêlarut.

Một lần nữa, nước Nga Xô viết lại bị đe dọa bởi những gọng kìm tấn công hết sức nguy hiểm của kẻ thù và trải qua thời kì nặng nề nhất của cuộc nội chiến.

Bằng cuộc chiến đấu ngoan cường vô song, dưới sự lãnh đạo của Đảng bônsêvích và Nhà nước Xô viết, Hồng quân và nhân dân Xô viết đã lần lượt bẻ gãy các cuộc tấn công và đánh bại các lực lượng quân sự quan trọng. Trước hết, Nhà nước Xô viết tập trung lực lượng cho mặt trận phía đông với khẩu hiệu “Tất cả để chiến đấu với Cônsác”. Mọi lực lượng đều dồn cho việc đánh bại Cônsắc. Tới tháng 7-1919, Hồng quân đã giải phóng được khu công nghiệp Uran, đẩy lùi quân Cônsắc về tận Xibia. Đến cuối năm, đội quân bạch vệ của Cônsắc bị đánh tan. Cônsắc đã bị bắt và sau đó đã bị xử bắn.

Hồng quân đã đánh bại cuộc tấn công của quân Iuđênít vào Pêtrôgrát.

Sau những thất bại nặng nề của Cônsắc và Iuđênít, từ nửa sau năm 1919 bọn đế quốc can thiệp và bạch vệ đã thay đổi kế hoạch, chuyển mũi nhọn của cuộc tấn công xuống phía nam với lực lượng chủ yếu là các đội quân của Đênikin.

Một lần nữa, nước Nga Xô viết lại lâm vào tình trạng nghiêm trọng. Bọn Đênikin chiếm đóng toàn bộ miền Nam với những vùng nhiên liệu chủ yếu và những vùng lúa mì quan trọng. Chúng lại được sự giúp đỡ rất lớn của bọn can thiệp về vũ khí, các phương tiện chiến tranh (kể cả xe tăng, máy bay) và các sĩ quan chỉ huy (Anh phái tới gần 2000 sĩ quan và vũ khí đạn dược của Mĩ có thể trang bị cho đội quân 100 nghìn người.. )

Mặt trận phía nam lại trở thành mặt trận chủ yếu. Dưới khẩu hiệu ”Tất cả để chiến đấu với Đênikin”, Đảng và Nhà nước Xô viết đã thi hành nhiều biện pháp khẩn cấp, huy động mọi lực lượng quân sự, kinh tế và điều động trên 80 nghìn đảng viên cộng sản, đoàn viên thanh niên và đoàn viên công đoàn phục vụ cho cuộc chiến đấu đánh bại bọn Đênikin.

Hồng quân bắt đầu phản công. Tới cuối tháng l0, đội quân Đênikin đã bị Hồng quân đánh bại bởi những trận đánh quyết định ở OOrren và Varônhegiơ. Tàn quân Đênikin vội vã bỏ chạy xuống Crưm. Tới đầu năm 1920, toàn bộ Ucraina và Bắc Cápcadơ đã được giải phóng.

Như vậy là trong năm 1919, Hồng quân đã đánh tan những lực lượng quân sự chủ yếu của bọn bạch vệ và can thiệp – các đội quân của Cônsắc, Đênikin, Iuđênít và Milerơ. Bọn can thiệp nước ngoài cũng bị đẩy lùi tại nhiều mặt trận như ở phía bắc, phía nam Uran và Trung Á, mà không buộc phải rút dần quân ngay từ mùa xuân năm 1919. Những thắng lợi có ý nghĩa quyết định trong năm 1919 đánh dấu bước ngoại của cuộc nội chiến, tạo thuận lợi cho Hồng quân và Chính quyền Xô viết.

d) Đánh bại thù trong, giặc ngoài

Từ tháng 3-1920, sau khi đánh tan những lực lượng chủ yếu của bọn

bạch vệ, nước Cộng hòa Xô viết đã tranh thủ thời gian đình chiến để khôi phục nền kinh tế bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Đai hội Đảng bônsêvích lần thứ IX (họp ngày 29-3-1920) đề ra nhiệm vụ khôi phục nền kinh tế quốc dân mà điều kiện chính là thực hiện triệt để một kế hoạch kinh tế thống nhất trên cơ sở điện khí hóa đất nước. Cùng lúc Hội đồng ủy viên nhân dân quyết định thành lập Ủy ban nhà nước điện khí hóa nước Nga (GOELRO) với kế hoạch xây dựng 30 nhà máy nhiệt điện và thủy điện lớn trong vòng 10-15 năm. Nền kinh tế Xô viết bắt đầu có những chuyển biến, việc cung cấp lương thực cho Hồng quân và nhân dân thành thị được đảm bảo tốt hơn.

Nhưng công cuộc xây dựng đất nước của nhân dân Xô viết chưa kịp bắt đầu đã bị phá hoại. Được sự giúp đỡ to lớn của các nước Mĩ, Anh, Pháp về vũ khí và tiền bạc, ngày 25-4-1920, quân đội Ba Lan mở cuộc tấn công vào lãnh thổ Ucraina. Ngày 6-5, chúng chiếm được Kiép. Cùng lúc, quân bạch vệ của Vranghen, Pếtluara và đám tán quân của Iuđênít đã nổi dậy hỗ trợ cho bọn Ba Lan. Vranghen đã đề ra kế hoạch tấn công vào Mátxcơva.

Một lần nữa, nước Cộng hòa Xô viết buộc phải dốc sức vào cuộc chiến đấu mới chống bọn can thiệp và bạch vệ. Ngày 14-5-1920, Hồng quân bắt đầu phản công và tới tháng 7, các cuộc tấn công của Hồng quân mới thu được kết quả. Tới giữa tháng 8, Hồng quân tiến gần tới Vácxava. Nhưng cuộc tấn công vào thủ đô Ba Lan đã không thành công. Ngày 12-l0-1920, hai bên kí hiệp định đình chiến và sau đó, ngày 18-3-1921 hòa ước giữa hai nước được kí kết. Theo hòa ước, hai bên chấm dứt các hoạt động quân sự, cam kết không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Ba Lan phải rút quân khỏi các vùng đất đã từ lâu thuộc Ucraina và Bêlarut.

Sau đó, Hồng quân tập trung lực lượng đánh tan đội quân bạch vệ (đông tới 6 vạn tên) của tướng Vranghen. Tới giữa tháng 11-1920, Hồng quân chiếm được Crưm. Vranghen và đám tàn quân ít ỏi phải bỏ chạy ra nước ngoài.

Cuộc nội chiến và can thiệp ở nước Nga đã chấm dứt. Cũng trong năm 1920, chiến sự được chấm dứt ở Trung Á và lần lượt các nước Cộng hòa Adecbaigian, Tuốcmênixtan, Acmênia và Grudia đã được giải phóng.

Như thế, trải qua ba năm chiến đấu cực kì gian khổ và khốc liệt, giai cấp công nhân và nhân dân lao động Xô viết đã bảo vệ thắng lợi Nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới. Chính quyền Xô viết được giữ vững, nền độc lập và tự chủ của đất nước được khẳng định. Đó là thắng lợi có ý nghĩa lịch sử và quốc tế sâu sắc, cổ vũ mạnh mẽ giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản thế giới.

Nguyên nhân có tính nhất quyết định làm cho nước Nga Xô viết đánh bại thù trong giặc ngoài là sự lãnh đạo của Đảng bônsêvích, do Lênin vĩ đại đứng đầu. Là người tổ chức và lãnh đạo cuộc chiến đấu, Đảng Cộng sản đã động viên, lôi cuốn và tổ chức giai cấp công nhân, nông dân lao động và nhân dân các dân tộc thiểu số đứng lên đấu tranh với kẻ thù.

Đảng có đường lối lãnh đạo đúng đắn, khai thác và phát huy cao nhất mọi sức mạnh, mọi nguồn của cải của nhân dân và đất nước để giành chiến thắng.

Sức mạnh của khối liên minh công nông, tình đoàn kết hữu nghị giữa các dân tộc Xô viết, cuộc chiến đấu vô cùng ngoan cường của Hồng quân và các đội du kích, sự đoàn kết và ủng hộ mạnh mẽ của giai cấp công nhân quốc tế và nhân dân bị áp bức trên toàn thế giới là những nhân tố quan trọng không thể thiếu được đã đưa tới thắng lợi vẻ vang của Chính quyền Xô viết.

V. Ý nghĩa lịch sử vĩ đại của cuộc cách mạng tháng Mười

Cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga năm 1917 có ý nghĩa lịch sử trọng đại, không những với nước Nga mà còn đối với thế giới.

Cách mạng tháng Mười đã mở ra một kỉ nguyên mới đối với nước Nga – kỉ nguyên giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân tộc không phải Nga được giải phóng, thoát khỏi mọi gông xiềng nô lệ, “đứng tên làm chủ đất nước và vận mệnh của mình. Một chế độ xã hội mới – chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa – đã được thiết lập với mục tiêu cao cả là xóa bỏ chế độ người bóc lột người, xây dựng một xã hội tự do, hạnh phúc và công bằng cho mọi người lao động.

Lịch sử nước Nga đã sang chương mới.

Cách mạng tháng Mười Nga đã có ảnh hưởng mạnh mẽ tới tiến trình lịch sử và cục diện thế giới. Thắng lợi của Cách mạng tháng Mười và sự ra đời của Nhà nước xã hội chủ nghĩa Xô viết đã làm cho chủ nghĩa tư bản không còn là một hệ thống hoàn chỉnh bao trùm thế giới. Thế giới đã phân chia thành hai hệ thống xã hội đối lập – hệ thống xã hội tư bản chủ nghĩa và hệ thống xã hội xã hội chủ nghĩa.

Cách mạng tháng Mười đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào cách mạng của giai cấp công nhân các nước, chỉ ra cho họ con đường đi tới thắng lợi trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản. Ngay sau thắng lợi của Cách mạng tháng Mười, một cao trào cách mạng vô sản đã dấy lên sôi nổi ở châu Âu trong những năm 1918-1923, làm chấn động dữ dội nền thống trị của giai cấp tư sản độc quyền ở nhiều nước.

Cách mạng tháng Mười đã mở ra một thời kì mới trong lịch sử đấu tranh giải phóng của nhân dân các nước thuộc địa và phụ thuộc ở châu Á, châu Phi và Mĩ la tinh. Thực tiễn của Cách mạng tháng Mười không những đã thức tỉnh và cổ vũ mạnh mẽ ý chí đấu tranh mà còn chỉ ra con đường đúng đắn đi tới thắng lợi cuối cùng của sự nghiệp giải phóng dân tộc. Một xu hướng mới đã xuất hiện trong phong trào giải phóng dân tộc ở nhiều nước – xu hướng đi theo ngọn cờ tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin với nhận thức mới: phong trào đấu tranh giải phóng của các dân tộc bị áp bức là một bộ phận khăng khít của cách mạng vô sản thế giới, tính tất yếu của sự kết hợp chặt chẽ giữa phong trào cách mạng của giai cấp vô sản và cách mạng giải phóng dân tộc trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa tư bản đế quốc. Nhờ đó, phong trào giải phóng dân tộc ở nhiều nước đã phát triển mạnh mẽ và giành được những thắng lợi quan trọng .

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Giống như mặt trời chói lọi, Cách mạng tháng Mười chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu hàng triệu người bị áp bức, bóc lột trên trái đất. Trong lịch sử loài người chưa từng có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế”.

Cách mạng tháng Mười đã đáp ứng những đòi hỏi cấp bách trong cuộc đấu tranh giải phóng của các giai cấp bị bóc lột và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới.

Trích đăng theo cuốn “Lịch sử thế giới hiện đại”

Related Posts

tamilstar hotmoza.tv adult video indian
broken marriage vow may 31 full episode compinoy.com maynilad water interruption
xxnx video com alfatube.mobi isis sex videos
futa cbt hentai madhentai.net hentai daietsu
xxnx sex video vegasmpegs.mobi animal and girl xnxx
vargin sex videos roxtube.mobi gonzoo xxx
xxx com bengali tubefury.mobi karnatak sex
henatai rape xxlhentai.net best rape hentai
الشراميط kentaweb.com نيك مضيفة طيران
tapsee pannu sex video tubenza.mobi tamil mami xvideos
oumi shinano hentaihost.org naruto henti
tamil play hindiporno.net antisexvideos
free indian sex scandels hindipornmovies.org real indian rape sex
セーラー服動画 freejavstreaming.net miaa-167
bollywood actress sexy photo newbigtube.mobi bf janwar